Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Một Thánh Lễ Tạ Ơn Với Chút Tản Mạn Của Riêng Tôi

alt

Nhà thờ Đồng Bình một ngày Thánh lễ Tạ Ơn mừng đón cha tân chánh xứ An-tôn Nguyễn Văn Thục.

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Blogger Hải Phòng & Khách Đà Nẵng

Cuối tháng 7 có hai nữ blogger Đà Nẵng ghé thăm Hải Phòng. Người thứ nhất là Minh Hương, người thứ hai là Hoa Băng Tuyết. Cả hai đều đến Hải Phòng nhân chuyến ra Bắc với công việc riêng của mỗi người nên tuy cùng xuất phát từ Đà Nẵng cùng ngày nhưng mỗi người lại có một lộ trình riêng và không đến Hải Phòng được cùng lúc. Minh Hương đến ngày 24/7, Hoa Băng Tuyết đến ngày 28/7. Cả hai đều chỉ dành cho Hải Phòng một khoảng thời gian chưa đầy 24 tiếng đồng hồ...

Sau đây là hình ảnh của hai cuộc gặp gỡ với hai nữ blogger Đà Nẵng ấy, xin được chia sẻ cùng mọi người:

alt

Chủ nhà trong chuyến ghé thăm của Minh Hương

Từ trái qua: Tuấn Anh, Thy Nguyên, Nguyễn Quốc Hùng, Hoài Khánh, ntt

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

Đêm Trăng Nghĩ Về Anh

 

alt


               Trong lòng Chúa, trong lòng nhau

               Tình yêu mãi là lẽ sống.

               Trong lòng Chúa, trong lòng nhau

               Gian truân là ân phúc

                                            khổ đau là cao quý.

               Trong lòng Chúa, trong lòng nhau

               Tràn trề ơn thiêng

                                        hai mảnh tim hướng thẳng lên Ngài./.

                                   

                                              (một đêm trăng sáng)

                                                  Đặng Kim Thoa

 

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Viết Cho Em Đêm Bão


alt

               Nép vào Chúa, nép vào nhau

               Bình yên lối về mưa gió

               Nép vào Chúa, nép vào nhau

               Đắng cay thành mật ngọt

                                                   trái ngang thành bèo bọt

               Nép vào Chúa, nép vào nhau

               Đầy trọn tin yêu

                                        ta từ hai nên một trong Ngài./.

                                                Đêm bão Nock-ten 2011, ntt

Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2011

Sapa...


alt



               Sapa mây giăng,
                                      Sapa thác đổ
               Lối tôi về
                             trắng mây trắng thác
               Sapa dốc nắng,
                                     Sapa đèo sương
               Hẹn ước nhau chi
                                        thẫm biếc đại ngàn?
               Sapa chợt gần,
                                    Sapa chợt xa
               Đồi Hạ thắp mùa hoa
                                            tim tím
               Sapa rượi hồng đào,
                                           Sapa môi em thắm
               Tôi tỉnh hay say rừng chiều xanh tóc gió?
                                           Sapa 7/2011, ntt

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

Qua Chút Xíu Trung Quốc

http://farm6.static.flickr.com/5036/5899106469_f568879921.jpg

Tour Sapa có đính kèm chuyến qua bên Hà Khẩu (Trung Quốc). Thị trấn Hà Khẩu (Hekou) là thủ phủ của huyện Hà Khẩu thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, liền kề và được phân định với thành phố Lao Cai, tỉnh Lao Cai của Việt Nam bằng sông Hồng và sông Nậm Thi. Đường qua cửa khẩu là cây cầu Hồ Kiều bắc qua sông Nậm Thi.

Thứ Tư, 13 tháng 7, 2011

Thăm Cổ Loa

http://farm6.static.flickr.com/5316/5899005491_9918735894.jpg

Trên đường đến Cổ Loa. Chuyến thăm Cổ Loa gồm 4 người: hai bố con nhà ntt cùng Thanh Thủy và cô giáo Vui (giáo viên trường của Thanh Thủy, người ngồi sau tay lái).

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

Ngày Xa Nhau

                        


                    Đã chia đều nỗi nhớ
                    Mà lòng vẫn chênh chao
                    Đã dặn nhau đừng buồn 
                    Mà mưa rơi phía ấy
                    Đã hẹn nhau ngày về
                    Mà vầng trăng như khuyết. 

                                                   ntt, tháng 6/ 2010



Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2011

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn

Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Nhà đạo sĩ bàng hoàng vì kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thuở xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay.

Băn khoăn về người bạn cũ thuở nào, nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, nhà đạo sĩ thấy ngày chết của kẻ đồng môn đúng là đêm có bóng ngựa hiện về. Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào.

Đêm đó, bên am thất, vào lúc ánh trăng bạc hạ tuần mềm mại trên rừng cây, bỗng có bóng người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Lại chính hồn người bạn đồng môn hiện về! “Này bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào”. Hồn người chết không trả lời, lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó: “Đi về phía đông mươi trượng. Vào đường hầm. Xuống trăm bước. Đi lên. Về phía nam.” Thoát chốc, hồn người bạn đồng môn biến bất ngờ như khi hiện đến, đẩy nhà đạo sĩ vào thế giới kỳ quái.

Thứ Hai, 30 tháng 5, 2011

Dân Thành Ethènes..

Câu chuyện

Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành Athènes như thế nào?".

Triết gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thế nào?". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày"....

Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".

Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...

Lần này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".

***

Chút suy gẫm

Cùng là con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định này không nằm trong đối tượng được thấm định mà là ở trạng thái tâm lí, tâm tính của chính người thẩm định.

Lòng khoan hòa không cố chấp, lòng bức bối thường hay bực dọc.

Lòng rộng chuyện lớn thành nhỏ, lòng hẹp chuyện nhỏ thành lớn...

Nhưng mà lòng người, tuyệt vời thay, lại là một thứ rất dễ co giãn, ai cũng đều có thể tự điều chỉnh nó, nới rộng nó!

Chẳng thể có một cá nhân nào hay một cộng đồng nào có thể làm hài lòng tôi tất cả. Một sự việc khó chịu ư? Sẽ luôn có đấy! Thế nhưng, thay vì phê bình chỉ trích và đưa ra những nhận định độc dữ, tôi sẽ ứng xử bằng cái nhìn tích cực, cái nhìn thân thiện nhất để khám phá ra những điều tốt đẹp.

Vạn vạn sự (dù thế nào đi nữa) cũng không phải hoàn toàn xấu, nếu như tôi ứng xử với vạn vạn những điều xẩy đến như loài ong kia: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...

(một ngày đầu tuần, ntt)


Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Chúa Nói Không...

Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.

Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy...

Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.

Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.

Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.

Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Ðấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Ðàng vì tôi đã tin.

Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: "Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi".

***

Đây là bài thơ của một tác giả vô danh đã được biết đến từ rất lâu trên hầu khắp thế giới. Bài thơ là cả một sự trải nghiệm về đời sống Đức tin; Là cái nhìn nhận thật sâu sắc về khổ đau, nan đề, nghịch cảnh...

Sớm hay muộn thì rồi ai cũng sẽ phải đến lúc nhận ra rằng: mọi vinh quang hay cay đắng, mọi thứ được thua nơi cuộc đời chẳng qua cũng chỉ là mây trôi, gió thoảng...

Cái giá trị mang tính trường tồn nơi vật chất phù du này ấy là tình yêu thương giữa con người với con người. Nhưng con người ta, lạ lùng thay, lại thường chẳng mấy dễ dàng gì để mắt đến lòng yêu thương tha nhân, yêu thương đồng loại...


(một chiều cuối tuần - ntt)


Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Đoản Khúc Cho Người


               Ta, người: năm tháng vơi đầy
          Buồn vui hạnh phúc sầu vây nụ cười.
               Khó chi nhớ mãi một người
          Dễ chi quên được nụ cười hôm xưa./.

                               Hoa Băng Tuyết



Thứ Ba, 17 tháng 5, 2011

Viết Ở Biển

 

               Biển chạy về phía bờ:
               Quẳng đi xác phù du
               Tôi chạy về phía em:
               Ôm giữ mãi niềm đau!
               Biển mới lại mỗi ngày
               Tôi cũ mòn năm tháng./.

                      ntt, tháng 5/2011

   

 

Thứ Tư, 11 tháng 5, 2011

Mỹ Khúc (2)






em là bờ
anh là sóng
bờ đẹp bởi sóng biết êm đềm

anh là nước
em là gió
nước biết dạt dào bởi có gió chăm,

em từ nguyên sơ
anh từ nguyên sơ
nên mỹ khúc
bởi biết cho và biết nhận.

2010, ntt


alt

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Mỹ Khúc (1)


     anh là thuyền

     em là bến,

     bến vì thuyền mà đợi

     thuyền vì bến mà về.

     em vì anh
   
     anh vì em

     nên duyên ta thắm!


             
Cát Bà tháng 5/2010, ntt
 

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2011

Giấc Biển

                
                trăng gối sóng
                sóng gối bờ cát
                em gối anh
                giấc biển dạt dào mà yên tịnh./.

                           Cát Bà 2010, ntt 



Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Vịnh Lan Hạ

Vịnh Lan Hạ, biển nước biếc xanh và trong suốt như pha lê. Trùng trùng những ngọn núi hiền hòa soi bóng êm đềm giữa lòng vịnh. Những ngọn núi vây bọc và chia cắt Lan Hạ thành trăm ngàn vịnh nhỏ tạo nên cảnh quan cuốn hút lạ kỳ. Mỗi ngọn núi là một đảo nhỏ. Dưới chân núi có rất nhiều những bãi cát mịn màng, tinh khiết. Những bãi cát này đều là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách... Xin được chia sẻ cùng mọi người chút xíu những ghi chép qua ống kính của ntt:

alt

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2011

Cát Bà 2011

Nghiễm nhiên có 4 ngày nghỉ liền kề từ 30/4, công ty tổ chức chuyến Cát Bà. Những người có gia đình ai nấy đều lỉnh kỉnh kéo theo bầu đoàn thê (phu) tử, ntt chọn cách riêng, đỡ lỉnh kỉnh hơn: cô con gái và mấy đứa cháu (đứa gọi bằng bác, đứa gọi bằng cậu)...

altDẫy phố ven biển

Biển Mặn...

                                      Tặng N.

Vì anh em làm thơ

Giọt nước mắt lăn qua ngày biển động

Vì anh sóng xô bờ

Ngàn thương nhớ tan ra thành bọt trắng

Biển mặn chát niềm đau trầm tích

Em vì thơ

Nước mắt cạn lại đầy...

                             
                                         Cát Bà 25/05/2010, ntt

 

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2011

10 Nhà Thờ Tráng Lệ Nhất Thế Giới

1. Nhà thờ St Patrick tại Melbourne, Australia, nổi danh thế giới là tòa nhà tiên phong xây dựng theo phong cách kiến trúc Gothic thời Phục hưng. Được khởi công xây dựng vào năm 1858 nhưng phải đến năm 1939, thánh đường cao nhất xứ sở kangaroo này mới được hoàn tất do trì hoãn nhiều lần về lý do tài chính.


2. Thánh đường "Our Lady of the Pillar" tại Zaragoza, Tây Ban Nha được xây dựng trên bờ sông Ebro khoảng thế kỷ 1-2 sau Công nguyên. Kiến trúc nguyên thủy của nó mang phong cách nghệ thuật Barốc, còn phần lớn tòa nhà hiện tại đã được xây dựng lại từ năm 1681 đến 1872.


3. Nhà thờ Đức Bà Paris tại thành phố Paris, Pháp, là thánh đường thuộc quyền cai quản của Đức Giám mục Paris. Xây dựng hoàn tất vào khoảng năm 1345, nhà thờ được xem là một trong những ví dụ tiêu biểu nhất cho phong cách kiến trúc Gothic Pháp và cũng là một trong những công trình đầu tiên sử dụng tường chắn kiểu vòm.


4. "Đền thờ quốc gia Đức Mẹ về trời" tọa lạc tại thành phố Baltimore, Mỹ. Xây dựng từ năm 1806, thánh đường Baltimore được thiết kế theo phong cách tân cổ điển, kết hợp giữa kiến trúc nhà thờ kiểu Mỹ thời xưa nhưng vẫn giữ những thiết kế truyền thống của các giáo đường lâu đời ở châu Âu.


5. St Mark là nhà thờ nổi tiếng nhất tại thành phố Venice, Italy, và cũng là một trong những ví dụ điển hình nhất của phong cách kiến trúc thời đế chế Byzantine.


6. Thánh đường Đức Mẹ Dolours tọa lạc tại thành phố Thrissur miền nam Ấn Độ là một trong những nhà thờ cao lớn nhất châu Á. Thánh đường được xây dựng theo phong cách Indo-Gothic với ba tháp lớn, trong đó tòa tháp cao nhất lên đến 79 m.


7. Nhà thờ Đức Bà Bảo Vệ được xây theo phong cách Byzantine mới, tọa lạc ở địa điểm cao nhất của thành phố Marseille, Pháp.


8. Thánh đường Đức Mẹ Licheń nằm trong khu làng Licheń Stary gần thành phố Konin, Phần Lan. Với gian giữa giáo đường cao 98 m, dài 120 m, rộng 77 m và một tòa tháp cao 141,5 m, đây là nhà thờ lớn nhất Phần Lan và cũng nằm trong số những nhà thờ lớn nhất thế giới.


9. Thánh đường Las Lajas theo phong cách kiến trúc Gothic thời Phục hưng từ năm 1916-1949 được xây bên trong hẻm núi của con sông Guaitara thuộc thành phố tự trị Ipiales, Colombia.


10. Nhà thờ St Peter tại Vatican, Rome, Italy, được xem là công trình mang tính tôn giáo lớn nhất thế giới với sức chứa 60.000 người. Ngôi thánh đường hiện tại được xây dựng lại từ một thánh đường Constantin cổ trong thế kỷ 16 với thiết kế của những nghệ sĩ bậc thầy thời Phục hưng, nổi bật nhất trong số đó là nhà điêu khắc kiêm họa sĩ Michelangelo.


Thánh đường thứ 11 chưa hoàn tất mang tên Sagrada Família. Đây là một đền thờ Cơ đốc giáo La Mã do tư nhân xây dựng tại thành phố Barcelona, Tây Ban Nha, vào năm 1882 và dự tính còn kéo dài ít nhất đến năm 2026 mới hoàn thành. Được xem là một tuyệt tác kiến trúc của kiến trúc sư trứ danh người Catalan, Antoni Gaudí, Sagrada Família đã trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch hàng đầu của Barcelona trong nhiều năm qua.

 

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2011

Giọt Yêu Thương

   
alt  


Tiếng chuông
Chiều thinh không
Đưa hồn về chốn cũ.
Thập tự nghiêng, máu đổ
Vì tôi Chúa vỡ tim nồng.

Từng giọt đỏ
Yêu thương
Quyền quyện hồn sâu lắng
Xóa tan đem miên trường.

Giọt đỏ từ cây gỗ
Rơi vào hồn ngu ngơ
Giọt yêu thương tuôn đổ
Lòng hoang sơ
Hạnh phúc vô bờ.

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2011

Ánh Sáng

Thời gian
Lọc mầu ánh sáng
Tung tăng cách đồng tự do

Ánh sáng đến tôi không phải quanh co
(mặc dù hàng tỷ năm mới tới)
Tôi đến tôi
Cớ sao phải hỏi
"Ta là ai giữa cuộc đời này"

Ánh sáng chia đều cho mỗi bàn tay
Hãy nhận lấy mà vui chơi, lam lũ
Tôi nhận phần mình và...
                                           xin đủ
Ung dung
                     thư thái
                                       trên đường...

                                Hoàng Khôi

Thứ Hai, 25 tháng 4, 2011

Chuỗi Mân Côi Chỗi Cuộc Đời


   
    


Mân Côi
là chuỗi cuộc đời
Tuổi thơ - thơ đẹp
          chim trời Mùa Vui.
Yêu thương
          giận dỗi
                    ngậm ngùi
ấp đầy Sự Sống
          một thời học sinh.
Vào đời
chèo lái nhọc nhằn
Nỗi ám ảnh
          khi lăn tăn Thương Buồn.
Họa vô đơn chí: lẽ thường
Sóng gió qua khỏi
          Sự Mừng dâng cao.
Bốn mùa nối tiếp sít sao
Cuộc đời Thập Giá dẫn vào Phục Sinh.

                         Hà Hải

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2011

Những Biểu Tượng Và Ý Nghĩa Mùa Phục Sinh

alt

Nguồn gốc Lễ Phục sinh

Theo phong tục và dân tộc tính ở các nước Trung Âu châu (Đức, Pháp, Áo, Hòa Lan, Bỉ, Lúc Xăm Bua, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha.. ) sau mùa đông giá lạnh, xuân về có ánh nắng mặt trời ấm áp làm đời sống vui tươi hơn. Mùa Phục sinh bắt đầu vào ngày rằm tháng đầu của mùa xuân.

Lễ Phục sinh bắt nguồn từ ngày Chuá Jesus bị đóng đinh trên Thập tự giá giá và sống lại, biểu tượng cho sự sống và sự phì nhiêu phong phú. Thời xa xưa người ta gọi lễ hội mùa xuân (Frühlingsfest / spring festival) hay "Ostarum" người Đức gọi là "Ostara" và danh từ "Ostern/ Easter" nguồn gốc từ chữ "Ost/ East" hướng về phương đông mùa xuân mặt trời sắp lên, người Do Thái gọi ngày lễ này là "Paschafest" Người Ai Cập (Ägypter) gọi là "Osterlamm/ paschal lamb)" cũng nhằm ngày rằm đầu tiên mùa xuân, họ giết cừu ăn mừng được giải phóng khỏi sự đàn áp, thoát khỏi thân phận nô lệ.

Hội nghị về Tôn giáo ở Niazäa năm 325 công nhận lễ hội mùa xuân, là ngày Lễ Phục sinh sau khi Chúa sống lại cho đến năm 1094 Oster Fest vui chơi 4 ngày rồi sau đó 3 ngày, nhưng đến nay chỉ còn lại 2 ngày.

Lửa Phục sinh

Người ở vùng quê sống đời nông nghiệp vui mừng mùa đông giá lạnh đi qua, xuân đến bắt đầu gieo trồng rồi gặt hái, nguồn gốc lửa phục sinh ngày xưa được đốt lên từ những cánh đồng trong đêm đầu tiên phục sinh, từ đó sẽ thắp lên ánh nến phục sinh. Ngọn lửa sưởi ấm mùa đông dài lạnh lẽo vì thời xa xưa không đủ tiện nghi như ngày nay có lò sưởi điện.. Người Ai Cập từng tôn thờ thần mặt trời xem ánh lửa như thần thiêng. Miền bắc Na Uy không có mặt trời, mặt trời tái xuất hiện vào cuối tháng giêng khoảng 4 phút, học sinh ở Trombo nghỉ học một ngày để chào mừng ánh mặt trời, ngược lại mùa hè đêm 23 tháng 7 thì mặt trời không hề lặn, không có mặt trời thì trên trái đất nầy sẽ không có sự sống, vì thế ánh lửa phục sinh cũng là nguồn sống của con người, lửa phục sinh tượng trưng cho ánh sáng mới mà Chúa đã mang đến cho con người. Từ năm 750 ở Pháp đã có phong tục đốt lửa phục sinh. Đến thế kỷ thứ 11 ở Đức đã dùng ánh lửa như một sự dâng hiến trong các nghi lễ về Tôn giáo.

Nến Phục sinh

Cơ Đốc giáo từ xa xưa đã sử dụng nến đốt sáng trên bàn thờ. Năm 384 lần đầu tiên ở Piacenca thánh Hieronymus (347- 419) viết trong thư Tôn đồ về ý nghiã biểu tượng của nến phục sinh là sự sống, đến năm 417 Giáo Hoàng Zosimus cùng công nhận biểu tượng đó là sự chết và sống lại của Chúa Jesus. Từ thế kỷ thứ 7 Giáo hội La Mã công nhận và sử dụng nến phục sinh cho đến thế kỷ thứ 10 được hầu khắp các quốc gia theo Cơ Đốc giáo sử dụng cho đến thế giới ngày nay .

Nến Phục sinh được đốt lên từ đống lửa trước nhà thờ trong đêm Phục sinh được thánh hóa theo phong tục lâu đời. Nến đốt sáng được rước vào nhà thờ, tín đồ sẽ thắp nến của mình từ cây nến phục sinh cả nhà thờ được rực sáng bởi ánh nến là dấu hiệu của sự sống, chiến thắng được tội lỗi và sự chết. Mọi người reo mừng "Christus ist das Licht- Gott sei ewig Dank". Ngày phục sinh cây nến có ghi hình thánh giá hay khắc tia ánh sáng mặt trời hay dòng nước.. Trên nến có cắm 5 dấu đinh, phía trên ghi mẫu tự Alpha và bên dưới mẫu tự Omega với ý nghiã đầu tiên và cuối cùng của tiếng Hy Lạp, tượng trưng cho Chúa Jesus là khởi đầu và cuối cùng, chung quanh cây nến ghi năm để nói lên " Chúa Jesus là Đấng Cứu độ từ khởi đầu, hôm nay và mãi mãi.

Trứng Phục sinh

Từ thế kỷ thứ 12, thứ Bảy Tuần thánh Ostersamstag người ta nấu trứng gà chín và sơn màu sắc sặc sở với những ý nghiã đẹp : màu đỏ tượng trưng cho may mắn, màu xanh cho hy vọng, trẻ trung vô tội, màu vàng cho sự khôn ngoan, màu trắng cho thanh bạch màu cam cho sức mạnh... bỏ trứng trong giỏ với những thức ăn khác mang đến nhà thờ. Trứng còn biểu tượng cho sự khởi nguyên của sự sống, bởi vậy theo truyền thuyết người chết được tẩm liệm người ta để trong quan tài một cái trứng biểu tượng cho cứu chuộc và sự sống đời sau, trên quan tài người chết thường cúng cơm có trứng gà. Người ta quan niệm con gà con tự mổ vỏ trứng chui ra, Chúa Jesus bị hành hạ đánh đập qua những đoạn đường dài khổ cực vác thập giá rồi bị đóng đinh chết an táng trong ngôi mộ đá đã đập vỡ cửa mồ và sống lại.

Thỏ Phục sinh

Các chuyện thần thoại hay trong dân gian đều có chuyện vui giúp đời như con thỏ là con vật hiền lành không làm hại sinh vật nào. Thỏ không có khả năng tấn công hoặc gây nguy hại cho các loài động vật khác, nhưng lại thường xuyên bị những con như sói, báo, chim ưng, cú... uy hiếp. Chính vì vậy, thỏ thường xuyên phải vểnh tai để chú ý xem bốn phía chung quanh có động tĩnh gì không, nhằm đề phòng bất trắc. Trong hoàn cảnh khắp nơi là kẻ địch như vậy, nên đôi tai của thỏ đặc biệt to dài nghe rất thính để chạy trốn khi nghe tìếng động trước sự tấn công.

Nữ thần ái tình Hy Lạp "Liebesgưttin Aphrodite" cho đến Nữ Thổ Thần Nhật Nhĩ Nam "Erdgưttin Holda" đều yêu chuộng thỏ. Ở Byzanz Tây Ban Nha các nhà biểu tượng học xem biểu tượng con thỏ là một Thiên sứ... Thỏ phục sinh xuất hiện từ năm 1678 do một giáo sư y khoa Von Georg Franck ở Franckenau dạy đại học Heidelberg công nhận thỏ là biểu tượng của sự sinh nở phong phú.

Hoa Phục sinh

Người Đức thường dùng cành cây tươi, treo những cái vỏ trứng gà, sơn nhiều màu và những con thỏ nhỏ bằng schocolat cho trẻ em, và các loại hoa thường dùng như Thủy tiên Osterglocken/daffodil; Uất kim cương Tulpen/Tulip; Phong tín tử Hyazinthen/hyacinth; Cúc đồng Gaenebluemchen/ dasiy; Bồ công anh Loewenzahn/ dandetion; Mao cấn Hahnenfuss/ buttercup..

***

Mùa Phục sinh ở Việt Nam thời tiết thường nắng mát rất dễ chịu (dịp cuối xuân sang hè), không giống như thời tiết bên Âu châu (ngày rằm tháng đầu của mùa xuân). Thời tiết mỗi lục địa khác nhau, sắc thái Mùa Phục sinh cũng như biểu tượng Phục sinh nơi này nơi kia không hoàn toàn giống nhau nhưng ý nghĩa những mùa Lễ Phục sinh đều giống nhau.

Chúa Jesus sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng hy vọng sẽ được sống lại như Chúa sau khi phải trải qua cái chết của thân xác...

Mừng Lễ Chúa Phục sinh để nhắc nhớ chúng ta thêm niềm tin. Thánh đồ Phaolô đã nói: "Nếu Chúa không phục sinh, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả niềm tin của anh em cũng trống rỗng" (1 Cr 15, 14)

 

Tài liệu tham khảo

Ostergeschichte- Quelle Johannes Ver 20 & 21

Nach den Evangelisten Johannes

Universal Lexion Faktum

  

NGÔI MỘ CHÚA GIÊSU Ở JERUSALEM

   
   
Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Holy Sepulchre - Jerusalem   
   

Nhìn từ trên cao 
 
 
 

Nhìn gần
 
   

Từ trên nhìn xuống - nơi đám đông là chỗ xem lễ vào buổi sáng -
phía sau là nơi cử hành các nghi thức của Chính Thống Giáo
 
 
 
 

Mái vòm nhà thờ Mộ Chúa 
 
   

Ngay trên cửa vào bên trong có gắn hình
Chúa Giêsu và 12 Thánh Tông Đồ
 
 
   

Bên trong nhà nguyện Thiên Thần -
Mộ Chúa phía bên trong.
 
   

Phía trong là Mộ Chúa Giêsu - Bàn thờ ngay trên Mộ Chúa -
Nơi thắp nến đánh dấu hướng đầu của Chúa. Chổ đứng chỉ
rộng khoảng 1m x 2m - Không thể chụp hết cảnh bên trong!
 
            

Từ trên nhìn xuống - nơi đám đông là chỗ dự lễ vào buổi sáng -
phía sau là nơi cử hành các nghi thức của Chính Thống Giáo
 
 
             

 Halelugia! Mừng Chúa Phục Sinh!

 

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2011

Khi Chúa Không Đáp Trả

(Thư gửi Mai Khôi)

Trong buổi hội thảo "Sống Đạo Hôm Nay" của Giới trẻ Hải Phòng, Mai Khôi có nói rằng bạn đã từng cầu nguyện xin Chúa đừng để cho chiến tranh Irắc xẩy ra, nhưng Chúa đã không can thiệp. Từ đó, bạn thấy thất vọng và hoài nghi về Chúa.

Mai Khôi thân mến! Nhà văn Pháp Victo Hugô đã có một nhận định rất xác đáng rằng: "Nếu như ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dựng lên con người theo hình ảnh của Ngài, thì suốt dòng lịch sử con người lại vẽ Thiên Chúa theo hình ảnh và quan niệm của riêng mình."

   
   

Đối diện trước một Đấng toàn năng, toàn tri là Thiên Chúa, thì mọi tri thức của con người đều trở nên hết sức nhỏ bé. Trí hiểu chật hẹp của con người không đủ khả năng để vươn tới đến tận cùng và lý giải đến tận cùng mọi vấn đề đang chi phối và tể trị trên đời sống của con người cũng như trong mọi sự kỳ bí và huyền nhiệm của toàn cõi vũ trụ bao la này.

Cùng với lịch sử loài người từ buổi sơ khai cho đến tất cả mọi nền văn minh của mọi thời đại, con người vẫn không ngừng khám phá về nguyên lý sự sống và ý nghĩa của cuộc sống. Tâm linh đã giải quyết những vấn đề mà đôi mắt phàm trần của con người không thể nhìn thấu được. Khái niệm Thiên Chúa xuất phát từ cõi tâm linh của con người. Nếu như chỉ bằng lý trí đơn thuần, chúng ta không thể hiểu được về Chúa. Chúng ta không thể  cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trên đời sống mỗi chúng ta. Và chúng ta cũng không thể nhìn thấy được những ân sủng của Chúa đến với chúng ta.

Đứng trước một nỗi đau lớn lao nhất, ví dụ như là trước cái chết của những người thân yêu, chúng ta sẽ nghĩ gì về Chúa nếu như không có can đảm để tin rằng mọi việc trong trời đất này đều thuộc về Chúa, đều nằm trong quyền tể trị của Ngài? Chúa có những sự sắp xếp và điều khiển để duy trì một trật tự mà nhiều khi con người hoặc không hiểu được, hoặc không có cam đảm để dám hiểu.

Xin trở lại nỗi thất vọng và sự hoài nghi của Mai Khôi về Chúa. Rất có thể Chúa đã nói điều gì với bạn rồi đó mà bạn không nhận ra thôi. Hoặc cũng có thể Chúa hoàn toàn im lặng trước lời cầu nguyện của bạn. Nhưng Mai Khôi à, ngay chính cả sự im lặng cũng có tiếng nói riêng đấy. Quả thật, tôi không được biết bạn hiểu về Chúa như thế nào, nhưng chẳng lẽ bạn chỉ có thể nuôi dưỡng niềm tin bằng sự đáp ứng của Chúa ngay tức thì thôi sao? Cũng chẳng lẽ bạn chỉ chịu tin trước một phép lạ được thể hiện ngay ra trước mắt bạn thôi sao?

Trên Thập giá chắc hẳn Đức Giêsu cũng nghe được những tiếng la gào: "Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!" (Mt. 27:40). Chúa đã không bước xuống vì Chúa không muốn nô dịch con người bởi những phép lạ. Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của sự bình an trong mỗi con người đến với Chúa, chứ không phải là Thiên Chúa của những con người bị khất phục bởi những nỗi sợ hãi trước một uy lực. Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, sứ điệp của Đức Giêsu vẫn mời gọi mọi con người đến với Ngài trong sự trông cậy và biết sống yêu thương. Đức tin giúp cho chúng ta có được một nhân sinh quan, một lẽ sống, một thái độ sống. Và qua đó chúng ta nhìn nhận mọi sự và đánh giá mọi sự. Đức tin Cơ đốc giáo cho chúng ta niềm hy vọng tốt đẹp về cuộc sống không phải chỉ ngày hôm nay, ngày mai, mà còn về cả một tương lai rất xa nữa.

Chiến tranh và hòa bình là hai đối cực. Nó không chỉ hiện diện trên bình diện một quốc gia, một cộng đồng, một dân tộc, mà còn hiện diện trên đời sống riêng lẻ của mỗi gia đình. Nó tiềm ẩn ngay trong lối suy nghĩ và hành động của mỗi chúng ta. Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá để mang lại mối giao hòa giữa con người với Thiên Chúa, và giữa con người với con người. Đức tin Cơ đốc giáo cho chúng ta chiếc chìa khóa để mở ra các cánh của của hòa bình ngay trong lối suy nghĩ và hành động của mỗi chúng ta. Chiếc chìa khóa đó là: Tình Yêu Thương.

Dù cho Mai Khôi có hoài nghi về Chúa đi nữa, nhưng bằng lời cầu nguyện của bạn cho hòa bình ở Irắc, tôi xin xác tín với bạn rằng: Bạn đã bước chân vào đồng cỏ xanh tươi của vị Mục Tử Nhân Lành là Chúa Giêsu rồi đó. Và tôi cũng đoan chắc bạn đã nghe được gọi Tình Yêu Thương của Chúa rồi. Chỉ cần gạt bỏ một vật cản đang che mắt bạn là bạn có thể nhìn thấy sự hiện diện của Chúa, và bạn cũng sẽ nhận ra được ý nghĩa và sự mầu nhiệm sau những lời cầu nguyện. Vật cản mà bạn cần phải gạt bỏ đó là: Chúa luôn làm thay cho con người tất cả. Một khi cái vật cản ấy không còn che mắt bạn nữa, thì chắc chắn bạn cũng sẽ nhìn thấy một ân sủng đang đi đến với bạn. Đó là: Bạn sẽ hiểu Chúa hơn!

ntt, 2004

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2011

Đọc Con Người Một Cách Độ Lượng

Một con người chính là một cuốn sách. Đọc một con người, còn khó hơn nhiều so với đọc một cuốn sách bằng chữ viết. Tôi rất chăm chú đọc, đọc suốt nửa đời người rồi mà đến nay vẫn chưa đọc hiểu "Cuốn sách về con người" này.

Có người, sẵn sàng đưa cho bạn chiếc ô vào ngày đẹp trời ánh nắng chan hoà, nhưng đến khi trời mưa, thì họ lại lặng lẽ giương ô đi trước rồi.

--- Khi bạn đọc họ, đừng nên có chút oán trách họ. Bởi vì họ không muốn bị nước mưa làm ướt thân mình, hơn nữa chiếc ô ấy họ mượn của người khác, họ cũng không muốn gách vác khó khăn cho người khác, bạn có thể nói gì được họ? Chi bằng bạn tự chuẩn bị chiếc ô của mình thì hơn.

Có người, khi bạn có quyền có thế, họ thường vây quanh lấy bạn, một khi bạn rời khỏi chức vị, hoặc hết quyền hết thế rồi, thì họ lại tránh bạn thật xa.

--- Khi bạn đọc họ, nhất thiết phải cảm thông cho họ. Bởi vì trước kia họ khen bạn là vì họ có việc gì đó cần đến bạn giúp đỡ, nhưng bây giờ bạn không có khả năng giúp họ nữa rồi, thì họ không cần phải ca ngợi bạn nữa. Lúc này, bạn phải bình tâm lại, trước hết hãy nghĩ xem rằng trước đây phải chăng mình đã quá cả tin người khác?

Có người, khi họ dốc bầu tâm sự với bạn, những lời lẽ của họ như mặt dòng sông ngọt ngào trong vắt chảy qua, thế nhưng ở dưới lòng sông, lại là dòng chảy ngầm vẩn đục bẩn thỉu.

--- Khi bạn đọc họ, tuyệt đối đừng nên căm ghét họ. Bởi vì những ai lừa dối người khác bằng chiếc mặt nạ gian trá, thì họ cũng sống rất khó nhọc trước mặt hay sau lưng người khác, nếu không khéo còn sẽ phải chịu sự trừng phạt của kẻ cùng lứa dối trá với họ, bạn cần phải cảm thông với phương thức sống của loại người này, chờ đợi sẽ có ngày nhân tính trở về với họ và rồi họ sẽ phản tỉnh.

Có thứ người, khi bạn vất vả gieo hạt giống, họ lại khoanh tay ngồi nhìn, không chịu nhỏ một hạt mồ hôi nào cả, nhưng đến khi bạn thu hoạch, thì họ lại không cảm thấy áy náy chút nào cả mà đến chia sẻ thành quả của bạn bằng đủ lý do.

--- Khi bạn đọc họ, đừng nên có chút ác cảm nào. Bởi vì có người họ sẵn sàng chung hưởng ngọt bùi trong thu hoạch của bạn, mặc cho họ mang trong lòng tâm lý như thế nào, bạn cũng nên có thái độ hoan nghênh họ. Bạn bỏ ra một chút hy sinh, nhưng lại toại nguyện vọng muốn làm nên sự nghiệp của người khác, dần dần rồi thì họ cũng biết được một chút lòng tự trọng và tự tin.

Có người, họ chú trọng thu vén bề ngoài, họ ăn vận có vẻ sang trọng, trong đáy lòng lại hết sức trống rỗng, đầy những ngu xuẩn và vô tri, hình thức tu dưỡng như vậy của họ, thường bất giác thể hiện trong lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành động của họ.

--- Khi đọc loại người này, bạn tuyệt đối đừng nên miệt thị họ. Bởi vì họ không biết rằng, trang phục họ mặc trên mình là do thợ may làm nên, cho rằng chẳng qua chỉ là do tiền bạc mua về, thế nhưng, kiến thức, phẩm chất đạo đức và chất khí của con người, mới là giá trị nhân sinh thật sự của con người. Đối với người ngu xuẩn, bạn nên đối chiếu lại hành động lối làm của mình.

Đọc người khác, thực ra cũng là đọc bản chính thân mình, trong khi đọc cái thật, cái thiện, cái đẹp của mình, cũng là lúc đọc cái giả cái thật ở đằng sau cái vẻ nghiêm chỉnh, cũng là lúc đọc cái xấu cái ác ở đằng sau vẻ đẹp, cũng là lúc đọc cái gian trá ở đằng sau nụ cười v v ...

Đọc con người, điều quan trọng là đọc hiểu loại người nào.

Đọc con người, là để làm một con người thật sự.

Bởi vậy, khi đọc con người, phải học biết cách khoan dung, phải biết cách độ lượng, có như vậy mới đọc được những thứ có ích cho mình, mới có thể đọc được cao thượng, mới có thể đọc được niềm vui, mới có thể đọc được hạnh phúc.

Mặc dù tôi chưa đọc hết "cuốn sách con người", song tôi sẽ cố gắng đọc cuốn sách này từ các góc độ khác nhau.

Trích: Tâm Linh Vào Đời


Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2011

Thánh Nữ Têrêsa Calcutta

Tin hay không tin, Công Giáo hay không Công Giáo, tất cả những người thành tâm thiện chí đều đón nhận gia sản tinh thần của Mẹ Têrêsa Calcutta đã để lại cho thế giới. Gia sản đó chính là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề khổ đau của nhân loại duy chỉ bằng tài trí, kỹ thuật hay tiền của mà trước tiên bằng trái tim rộng mở, tâm hồn quảng đại, đôi tay biết chia sẻ.

Qua cuộc sống tận hiến cho những người cùng khổ, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề, Mẹ Têrêsa Calcutta nhắc nhở đến thế giới một sứ điệp vô cùng đơn giản: "Hãy sống tử tế với nhau". Đó là chìa khóa giúp giải quyết được mọi vấn đề của nhân loại ngày nay.

Cảnh tượng linh cữu của Mẹ Têrêsa được đặt trên chiếc xe chờ đại bác và di chuyển qua những con đường của thành phố Calcutta, Ấn Độ hôm thứ bẩy ngày 19/5/1997, quả không phải là chuyện bình thường. Cảnh tượng này không những không bình thường mà còn là một nghịch lý, bởi vì những nữ tu suốt đời hy sinh phục vụ xã hội cũng như không ngừng kêu gọi hòa bình, lại được đặt trên một thứ khí cụ chỉ gợi lên quyền lực, nhất là hận thù và chết chóc.

Nhưng nhìn dưới một góc cạnh khác, thì đây không phải là danh dự của một lễ quốc tang mà chính phủ Ấn Độ muốn dành cho Mẹ, hình ảnh của Mẹ nằm trên một chiếc xe chở đại bác hẳn phải mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Chiếc xe chở đại bác này là một tàn tích của thời thực dân mà người Anh để lại cho Ấn Độ sau khi đã trao trả độc lập cho nước này. Người đầu tiên được chở trên chiếc xe lịch sự này là Mahatma Gandi, người cha già của dân tộc đã dùng phương pháp bất bạo động để tranh đấu và mang lại độc lập cho sứ sở. Với hình ảnh của con người yêu chuộng hòa bình nằm trên biểu tượng của hận thù và chết chóc, người Ấn Độ muốn nhắn gửi đến thế giới sứ điệp của Mahatma Gandi, đó là: "chỉ có tình yêu thương mới bẻ gẫy được xiềng xích của hận thù và chiến tranh". Lập lại cử chỉ này với người đàn bà suốt đời hy sinh để phục vụ người nghèo, có lẽ chính phủ Ấn Độ cũng muốn gửi gắm đến thế giới cùng một sứ điệp ấy.

Một thân xác mỏng manh, yếu đuối và câm lặng nằm trên một thứ khí giới biểu tượng của quyền lực, hình ảnh này còn muốn nói lên một sứ điệp khác mà Mẹ Têrêsa Calcutta đã nhắn gửi cho tất cả những người đang nắm giữ quyền lực trên trần thế này. Sứ điệp đó là để giải quyết vấn đề nghèo đói và bao nhiêu tội trạng của xã hội, con người cần phải có một trái tim trong sạch và quảng đại. Mẹ không ngừng muốn nói rằng ngừoi ta không thể giải quyết vấn đề nghèo đói và xã hội chỉ bằng những chương trình vĩ đại hay những phương tiện kỹ thuật tối tân, mà bằng tấm lòng rộng mở và đôi tay quảng đại.

Với tất cả danh dự dành cho Mẹ, thế giới đã phải nhìn nhận rằng không kèn, không trống, không cần một chương trình vĩ đại nào Mẹ đã có thể xoa dịu được vết thương của biết bao nhiêu người đau khổ trên thế giới. Đó là công trình mà không một chính quyền nào, không một xã hội nào có thể làm được. Bí quyết duy nhất chỉ đơn giản là một trái tim luôn biết nhạy trước nỗi khổ của con người đồng loại, và đôi tay luôn sẵn sàng đưa ra để trao ban, săn sóc, nang đỡ, ủi an. Khi mới thành lập một bệnh xá để chăm sóc các thơ nhi bị bỏ rơi ngoài đường phố Calcutta, Mẹ đã xin 150 chiếc gường cũi, Mẹ đã không xin một số tiền để mua những chiếc gường cũi mới, mà chỉ xin nhận được những chiếc gường cũ từng được những cha mẹ giầu có sử dụng cho con cái họ. Mẹ làm như thế để cho mọi người hiểu được rằng điều Mẹ trước tiên cần không phải là một phương tiện dù là một phương tiện tối tân đến đâu, mà chính là tình thương. Mẹ muốn nhắn gửi đến những ai từng làm cha mẹ hiểu rằng tình thương mà họ dành cho con cái của họ qua những chiếc gường cũi ấy, giờ đây cũng cần được chia sẻ cho những đứa trẻ bất hạnh bị chính cha mẹ và xã hội đẩy ra bên lề.

Mẹ Têrêsa xác tín rằng với tình thương, con người có thể giải quyết được mọi vấn đề, nói như Mahatma Gandi, tình thương là sức mạnh vạn năng nhất trong tay nhân loại. Với tình thương, Mẹ xem thường tất cả những chương trình vĩ đại, những ủy ban hành động và nhất là những cuộc thảo luận dài dòng. Đối với Mẹ, ngoại giao là việc mất thời giờ và mất tiền vô ích, điều này đã được xác minh một cách hùng hồn qua công tác cứu trợ của Mẹ tại Libăng. Vào giữ lúc quân đội Isarael dội bom xối xả xuống thủ đô Bay Rut, Mẹ đã đứng giữa những làn đạn để điều khiển một cuộc di tản các em chậm trí ra khỏi một bệnh viện. Một sự can đảm mà chỉ có tình thương mới có thể khơi dậy như thế, đã có giá trị hơn bất cứ một cuộc thương thuyết ngoại giao nào. Trong khi tất cả các cuộc thương thuyết của các nhà ngoại giao đã không đạt được kết quả nào, thì sự hiện diện của người đàn bà bé nhỏ nhưng được thúc đẩy bởi một tình thương vượt mọi biên giới đã chấm dứt được cuộc oanh tạc của quân đội Israel.

Trên màn truyền hình mọi người đều chứng kiến được hiệu năng của tình thương, bồng trẻ em trên tay. Mẹ Têrêsa điều khiển cuộc di tản các em chậm trí ra khỏi bệnh viện, mọi sự đã diễn ra trong trật tự và êm thắm. Chỉ có tình thương không biên giới mới có được một hiệu năng như thế. Tiếng bom chấm dứt, cuộc di tản đã được hoàn thành một cách tốt đẹp mà không cần phải có bất cứ một kế hoạch nào. Đây là một bằng chứng hùng hồn về sức mạnh vĩ đại của tình thương. Chỉ có tình thương mới có thể giúp giải quyết được mọi vấn đề của xã hội, giúp con người xích lại gần nhau, hiểu biết nhau và sống tử tế với nhau như những con người.

ntt & Lm. Antôn

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2011

Thơ Têrêsa Calcutta

LẠY CHÚA GIÊSU XIN GIẢI THOÁT CON

Khỏi thèm khát được ca ngợi
Khỏi thèm khát được vinh danh
Khỏi thèm khát được chúc tụng
Khỏi thèm khát được hỏi ý kiến
Khỏi thèm khát được nổi tiếng

Khỏi sợ hãi bị lăng nhục
Khỏi sợ hãi bị khinh miệt
Khỏi sợ hãi bị vu oan
Khỏi sợ hãi bị quên lãng
Khỏi sợ hãi bị sai lầm
Khỏi sợ hãi bị nhạo cười
Khỏi sợ hãi bị chất vấn.

 

DÙ GÌ ĐI NỮA

Con người vô lý, sai lầm và ích kỷ
Hãy yêu thương họ dù gì đi nữa...

Nếu bạn làm điều tốt, họ sẽ lên án,
Là bạn làm cho chính bạn với nhiều ẩn ý
Hãy làm tốt cho họ dù gì đi nữa...

Nếu bạn thành công,
Sẽ có người giả dối đến với bạn
Cũng như có thêm kẻ thù ghét bạn
Hãy thành công, dù gì đi nữa...

Điều bạn làm sẽ rơi vào quên lãng.
Hãy làm điều tốt dù gì đi nữa...

Sự thành thật và thẳng thắn
Khiến bạn dễ bị mích lòng
Hãy thành thật và thẳng thắn, dù gì đi nữa...

Những gì bạn bỏ công xây dựng cả năm,
Có thể tan biến sau một đêm
Hãy xây dựng, dù gì đi nữa...

Con người thật sự cần được giúp đỡ
Nhưng họ có thể tấn công bạn
Nếu bạn giúp đỡ họ.
Hãy giúp đỡ họ, dù gì đi nữa...

Bạn hãy hết mình xây dựng thế giới
Và chỉ nhận được đắng cay.
Hãy cho thế giới hết sức, dù gì đi nữa...

 

CUỘC SỐNG

Cuộc sống là cơ hội, hãy nắm bắt
Cuộc sống là hương sắc, hãy thưởng thức
Cuộc sống là hân hoan, hãy tận hưởng
Cuộc sống là ước mơ, hãy biến thành hiện thực
Cuộc sống là thách thức, hãy đối diện
Cuộc sống là trách nhiệm, hãy chu toàn
Cuộc sống là đa đoan, hãy thừa nhận
Cuộc sống là vốn quý, hãy chăm chút
Cuộc sống là hạnh phúc, hãy xứng đáng
Cuộc sống là bí ẩn, hãy xuyên thấu
Cuộc sống là giầu có, hãy giữ gìn
Cuộc sống là tình yêu, hãy thụ hưởng
Cuộc sống là lời hứa, hãy thực hiện
Cuộc sống là tụng ca, hãy hát lên
Cuộc sống là đấu tranh, hãy dấn bước
Cuộc sống là bi kịch, hãy vượt qua
Cuộc sống là mạo hiểm, hãy phiên lưu
Cuộc sống là sự sống, hãy bảo vệ.

              Tác giả: Thánh nữ Têrêsa Calcutta

 

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2011

Nắng Đầu Xuân Ấm Hẳn Lên Rồi

Nắng đầu Xuân ấm hẳn lên rồi
sau một mùa đông rất dài và rất lạnh,
nay những cây táo cây mận cây mơ rừng
cả những cây gai cây hồng dại
bỗng thấy mộng trào dâng lên nhựa sống
lá non xanh và nụ hoa trắng tuyền
điểm màu hồng đỏ
hoặc những hoa forxixie bốn cánh vàng rực lên
mà những ngày trước đây
chúng hãy còn xơ xác khô cằn tiều tụy.

Nhưng chính vì cây cỏ xơ xác khô cằn và tiều tụy
nên chúng mới lại cần mưa mát và nắng ấm
để đua nhau đâm chồi nẩy mộng thật tràn trề sức sống;
cũng chính vì con người hẹp hòi, gian dối và đồi trụy
nên họ mới lại càng cần nước mưa cam lộ của hiểu biết
và nắng ấm đầu xuân của yêu thương
để được rạng rỡ lên lòng chân thành, tình giao cảm và nghĩa nhân ái.

St


Thứ Năm, 14 tháng 4, 2011

Ý Nghĩa Của Niềm Tin

Tin không phải là biết, vì biết thuộc lĩnh vực khoa học, có quan sát, lý luận và thực nghiệm. Cái biết này, dù là biết khoa học, cũng không bao giờ tuyệt đối và cố định, mà được xây dựng trên những giả thuyết đã được chứng minh và luôn luôn phải kiểm chứng lại, thậm chí bị loại bỏ, khi có những sự kiện mới chứng minh ngược lại. Khi thuyết tương đối của Einstein xuất hiện, thiên hạ phải bỏ mô hình cũ của Newton để xây dựng một vũ trụ quan mới. Nhưng chính Einstein đã thẳng thắn công nhận là thuyết tương đối của ông cũng chỉ có giá trị tương đối thôi. Rất có thể sau này một hậu sinh nào đó sẽ phi bác nó, như Einstein đã từng phi bác quan niệm cơ học của Newton.

Đức tin không thuộc lãnh vực tri thức khoa học như thế. Tuy nhiên tin không hoàn toàn mù quáng, phi lý. Lòng tin đích thực luôn đòi hỏi những dấu chỉ khả tín, đúng như châm ngôn của thánh Augustino: "Tôi tin để hiểu và tôi hiểu để tin". Ân sủng của đức tin mở "mắt tâm hồn" (Ep. 1:18) giúp người tín hữu hiểu sâu sắc hơn về những điều đã được mặc khải. Dù rằng không bao giờ chúng ta có thể hiểu mầu nhiệm của đức tin, nhưng chắc chắn tin không hoàn toàn đồng nghĩa với phi lý và mù quáng, đến độ thánh Augustino có thể xác quyết: "Tôi sẽ không tin nếu tôi không nhận thấy rằng tôi phải tin".

Tuy nhiên, thông thường đã gọi là đức tin tất nhiên vượt trên lý trí và phải từ bỏ một phần nào đòi hỏi chính đáng của lý trí, bởi vì tôi tin không thể đồng nghĩa với tôi thấy hay tôi biết. Chính thánh Toma cũng công nhận là đứng trên quan điểm tri thức, đức tin bao giờ cũng kém khoa học. Thật thế, tin không thể rõ ràng như thấy, như biết rõ rệt hai với hai là bốn, vì đã biết, đã thấy thì đâu con gọi là tin.

Trong một mức độ nào đó ta có thể nói: tin chính là hy vọng trong khi không còn hy vọng, là chọn những gì không thể quan niệm làm nền tảng cho hành động và cho lẽ sống, chết. Người ta kể câu chuyện sau đây về một vụ cháy nhà. Khi ngọn lửa bốc cao, khói tỏa mù mịt khắp cả nhà. Mọi người hoảng hốt tông của chạy ra ngoài. Khi đã hoàn hồn, cha mẹ kiểm điểm lại các con mới hay còn thiếu đứa út. Nó sợ lửa nên không dám chạy ra ngoài như các anh chị, trái lại đã leo lên lầu. Nhưng lửa và khói bắt đầu bốc lên tới lầu trên. Cha mẹ lớn tiếng gọi nó. Đứa bé mở cửa nhìn xuống, nhưng vì khói mù mịt nên chẳng trông thấy gì, chỉ nghe tiếng gọi của người cha mà thôi. Cha nó giục: "Con cứ nhẩy xuống, cha sẽ đỡ con". Thằng bé mếu máo khóc: "Con không dám nhẩy đâu, vì con chẳng trông thấy cha!". Người cha vội trấn an: "Nhưng cha trông thấy con, con cứ nhẩy xuống đi, cha sẽ ẵm con". Cuối cùng mặc dù chẳng trông thấy gì, nhưng thằng bé hoàn toàn tin tưởng và hy vọng và lời hứa của người cha... nên nhắm mắt nhẩy xuống.

Như đứa bé trong câu chuyện, có những trường hợp người tín hữu cũng trải qua đêm đen dầy đặc, chẳng trông thấy gì và rất có thể cũng chẳng cảm nghiệm gì. Tuy nhiên, tin tưởng nơi lời mời gọi và tình thương của Thiên Chúa... vẫn nhất quyết bước đi.

Theo nghĩa rộng, tin là chấp nhận một các tự do lời nói, ý kiến, quan điểm, lời mời gọi hay hứa hẹn của một ai đó. Cuộc sống thường nhật của chúng ta được xây dựng trên một sự tin tưởng nào đó nơi cuộc đời và con người. Chẳng ai có thể sống và làm việc nếu triệt để không tin vào ai cả. Rất nhiều kiến thức và thông tin của chúng ta được xây dựng trên yếu tố niềm tin: chẳng hạn tin ở tính chính xác của thông tin và thái độ chuyên nghiệp của người đưa tin. Dĩ nhiên, có những trường hợp người đưa tin hiểu sai, hoặc tệ hơn nữa đã bóp méo sự thật hay bịa đặt một nguồn tin nào đó. Chính vì vậy, không thể ngây thơ đặt niềm tin vào bất cứ ai, nhất là ở thời đại chúng ta. Tuy nhiên, một xã hội lành mạnh không thể triệt để xây dựng trên nghi ngờ và dối trá.

Trong phạm vi tôn giáo, không bao giờ có thể đồng hóa niềm tin với sản phẩm của suy tư triết học hay thành quả của công trình nghiên cứu, thí nghiệm khoa học. Niềm tin tôn giáo biểu thị mối tương quan ân tình và tín thác giữa Thiên Chúa với người tín hữu. Niềm tin tôn giáo giúp người tín hữu gặp gỡ Thiên Chúa và đặt trọn vận mệnh của mình trong bàn tay nhân ái của Ngài. Tin là cái gật đầu chấp nhận tiếng gọi xa hơn, cao hơn chính bản thân... để can đảm bước đi xa hơn lãnh vực khả tri, khả giác và khả nghiệm.

Có thể đặt vấn đề về những lý do để tin và cũng có quyền không tin. Tuy nhiên, nói một cách nghiêm chỉnh không thể đồng hóa niềm tin tôn giáo với những hình thức mê tín, hay đặt ngang hàng việc tin vào một Thiên Chúa toàn năng với chuyện ông Táo chầu trời hay chú Cuội ngồi gốc cây đa. Tin là một thái độ của con người toàn diện quyết định vượt xa mọi thực tại hữu hình, mọi lý luận phàm trần để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để bước theo Ngài. Chính niềm tin này cho phép tín hữu tham dự vào huyền nhiệm của Ngài, giúp họ biết nhìn vạn sự theo nhãn quan của Ngài, dạy họ biết mở rộng lòng mình để đón nhận chân lý mạc khải và can đảm sống trung thực với niềm tin của mình. Trong ý nghĩ đó tin luôn đòi hỏi con người phải đi tới, phải vượt ra khỏi phạm vi chật hẹp của lý trí để bước vào tương quan huyền nhiệm với Đấng Tuyệt Đối.

Kiến thức khoa học là một thứ biết thuộc loại thời thượng ở xã hội hôm nay, nhưng không phải là cái biết duy nhất và độc nhất. Còn nhiều cách thế nhận thức khác nữa. Paul Valéry dám nói "mơ mộng cũng là nhận thức" (le songe est savoir). Pascal cho rằng trái tim có lý lẽ riêng mà lý trí không hiểu nổi. Trên đời này có nhiều điều chỉ có thể cảm nghiệm chứ đâu có thể đo lường bằng tiêu chuẩn khoa học. Làm sao đo đếm được tình yêu và tình bạn? Biết lấy gì để thẩm định tình mẫu tử? Trong ý nghĩa đó, dù rằng tin không đồng nghĩa với tri thức khao học, nhưng tin cũng bao hàm một cách thế nhận thức, ở bình diện khác, vì "sự chắc chắn do ánh sáng của Thiên Chúa ban thì lớn lao hơn sự chắc chắn do ánh sáng tự nhiên của lý trí" (Tôma Aquinô).