Thứ Tư, 5 tháng 5, 2010

Nhân Đạo Khổng Giáo

Cơ sở, động lực và tư tưởng căn bản của Khổng giáo là đức Nhân, một đức Nhân bắt rễ thâm sâu tự đáy bản thể con người, một đức Nhân mở rộng ra trong mọi lãnh vực sinh sống của xã hội, và một đức Nhân vươn lên những chiều cao siêu việt của cuộc sống. Đức Nhân là cái tổng hợp, kết tinh và quán xuyến tất cả đạo lý của Khổng Tử như chính ông đã nói: "Ngô đạo nhất dĩ quán chi". Chữ Nhân là một chữ hội ý gồm chữ người và chữ số hai, ngụ ý nói về tương quan giữa người với nhau, thực hiện đến một mức lý tưởng. Chữ nhân thường được diễn tả qua những tiếng: có tính người, có tình người, con người có lòng, con người có bụng dạ. Nội dung gồm: tâm tình quý, trọng, kính, mến, yêu người, tự trọng đối với chính mình và quý trọng cuộc sống; từ đó có thái độ bao dung, đại lượng, tin cậy, cảm thông, liên đới, giúp giùm, có khuynh hướng đặt mình vào địa vị của người và tìm hiểu người như hiểu chính mình.
Một số bình phẩm thường cho rằng đức Nhân trong Khổng giáo là tiêu cực, có thứ bậc hay chỉ giới hạn trong vòng người thân, không biết thương kẻ thù nghịch, nhất là khi so sánh với Mặc Tử với thuyết Kiêm ái chủ trương yêu thương mọi người không phân biệt, với Phật giáo qua giáo lý Từ bi dạy yêu thương tất cả vạn vật chúng sinh cũng không phân biệt, với Cơ Đốc giáo chủ trương yêu thương đến cả những người thù nghịch, với Lão Tử chủ trương lấy đức báo oán, lấy điều lành mà ăn ở cả với những kẻ không lành (Đạo Đức Kinh). Những bình phẩm trên đây có thể có phần đúng, nhất là sau này khi Khổng giáo đã bị chi phối bởi nhiều trường phái và các chính thể nặng pháp lý, quyền hành và tư lợi. Nhưng một tìm hiểu đầy đủ, chính xác và khách quan về đức Nhân trong Khổng giáo nguyên thuỷ sẽ đưa ta tới những khám phá không kém sâu xa, bao la và cao cả.
Cái đức Nhân quán xuyến tất cả đạo lý của Khổng Tử, đi từ bản thân, qua người đồng loại, rồi vươn lên những chiều cao siêu việt, được diễn tả cô đọng trong những câu sau đây. Bắt đầu từ việc điều chế bản thân: "khắc kỷ, phục lễ vi nhân": chế thắng lòng tư dục và theo về lễ tiết nguồn gốc, đó là nhân (Luận Ngữ 12:1). Đối với người đồng loại thì có 5 đức tính diễn tả đức Nhân, đó là "cung, khoan, tín, mẫn, huệ": kính cẩn, khoan dung độ lượng, trung tín, siêng năng giúp giùm, ban biểu ơn huệ (LN 17:6). Tránh cho kẻ khác những điều mà mình không muốn kẻ khác làm cho mình: ''Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" (LN 15:23). Không những thế, mà còn rất tích cực xem người như chính mình, để làm cho họ cũng được thành nhân và thành đạt: "Kỷ dục lập nhi lập thân, kỷ dục đạt như đạt nhân". Đức Nhân đó lại còn đi rất xa và mở lòng ra rất lớn, không những kiêm ái một vài người hoặc trong vòng dăm ba người thân, nhưng là đi đến hết mọi người và không còn phân biệt thân sơ, không những giúp giùm trong đôi ba công việc, nhưng là độ lượng và tận tụy đến kỳ cùng: "bác thí ư nhân, nhi năng tể chúng": thi ân bổ đức cho khắp cả dân gian, lại hay cứu tế cho đại chúng; được như thế thì theo Khổng Tử không những phải gọi là bậc nhân mà còn xem là bậc thánh nữa kia (LN 6:28).
Mạnh Tử cũng cùng một đạo lý đức Nhân như Khổng Tử, đôi khi lại còn diễn tả một cách có thể hiểu xa hơn, như về đức Nhân đối với kẻ thân cũng như người sơ: "nhân giả ái nhân": người có nhân thì yêu người (Mạnh Tử), và "nhân giả vô bất ái dã": người có nhân không thể không yêu người (Mạnh Tử). Hoặc khi nói về thái độ đối với kẻ tốt người xấu không phân biệt: "nhân giả dĩ kỳ sở ái, cập kỳ sở bất ái": người nhân giúp đỡ từ chỗ thân ái đến chỗ chẳng thân ái (Mạnh Tử). Với thí dụ với một đứa bé rơi xuống giếng, ai nấy đều động lòng trắc ẩn mà ra tay cứu vớt, không phân biệt đứa bé là ai, cũng không chờ khen chê.
Ngoài ra, đức Nhân không chỉ có nghĩa trong lãnh vực luân lý mà còn thấu suốt bao trùm các lãnh vực văn hoá và tinh thần. Trong lãnh vực văn hoá, đức Nhân phải đi cùng với trídũng. Có lòng nhân muốn cứu một người rơi xuống giếng, không có nghĩa là cứ nhẩy ào xuống giếng, nhưng là phải suy nghĩ tìm phương cách đưa nạn nhân lên. Lòng nhân cũng không có nghĩa là mềm yếu thụ động, gặp hoạn nạn nguy hiểm thì ngồi bó tay than thở, nhưng là nghĩa liệt can đảm và thực hiện những điều phải làm dẫu có gặp khó khăn. Có văn hoá, còn là kẻ có nhân cách: biết suy nghĩ khách quan, chính xác, độc lập. Khổng Tử gọi những người này là người quân tử. Người quân tử biết hoà nhã nhưng không đồng tình việc làm quấy: "quân tử hoà nhi bất đồng" (LN 13:23), biết hợp quần mà không bè đảng: "quần nhi bất đảng" (LN 15:21). Có văn hoá, cũng còn là có tâm hồn thẩm mỹ, biết rung cảm trước những cảnh đẹp, thi văn, âm nhạc. Có lần Khổng Tử nghe nhạc Thiều (thời vua Thuấn) thích thú đến ba tháng không còn biết đến miếng ăn mùi thịt (LN 7:13). Ai không hiểu chút gì về nghệ thuật thì Khổng Tử cho là còn nửa con người mà thôi.
Đức Nhân còn bao gồm cả lãnh vực tinh thần, mà ngày nay ta gọi là bản vị, là tính danh. Đó là bản sắc riêng biệt của một con người, một nền văn hoá, một dân tộc, mà con người có đức Nhân cảm gắn bó liên hệ và có bổn phận duy trì và phát huy.

Thứ Hai, 3 tháng 5, 2010

Kinh Nghiệm Giác Ngộ Của Đức Phật

Đức Phật trong thời gian bỏ nhà đi tìm đạo được gọi là sa môn Gotama, ròng rã 6 năm trời đi học đạo với các lễ sư Balamôn cũng như thực tập các môn ăn chay phạt xác rất nghiệt ngã. Cuối cùng ông thấy giáo lý Balamôn cũng như các việc ăn chay phạt xác đều là vô nghĩa. Ông bèn tìm đến một gốc cây pippala (sau này gọi là cây Bồ đề) rồi suốt nhiều ngày trầm tĩnh nhiếp tâm theo dõi hơi thở và thiền định. Bỗng một buổi sáng sớm kia, khi sao mai vừa mọc, thì Gôtama quán chiếu được vạn vật là vô ngã, nhưng đồng thời muôn loại chúng sinh đều có mặt trong nhau trong một tương quan đồng sinh đồng tử đồng hiện hữu - gọi là tương tức, tương nhập, tương tác -, và vạn pháp của vũ trụ, thế giới và lịch sử được thường tồn bất sinh bất diệt, giống như sóng chỉ là hiện tượng mà trước sau vẫn thật chính là nước. Với cái thấy này, sa môn Gôtama cảm thấy không còn bị ràng buộc vào lưới sinh tử; và do đó, ông đạt được một tâm trạng an ổn, không còn lo âu sợ hãi. Gôtama bừng sáng, giác ngộ; ông bất giác mỉm cười, nụ cười của ông như một bông hoa khi sao mai vừa mọc và khi trời vừa sáng. Gôtama nay được gọi là Bụt (buddha) nghĩa là người giác ngộ.

Kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật là gì? Đó là kinh nghiệm về sự vô ngã, cái vọng ngã của lòng tham: tham sinh tham ái tham dục tham thân suy tôn mình là chủ thể và chủ tể biệt lập, đó còn là kinh nghiệm về pháp giới (dharma) nghĩa là về chân lý muôn vật có mặt trong nhau, nương tựa vào nhau và thường tồn bất sinh bất diệt. Giác ngộ đây chính là đạt tới chân thức, chân tâm, nghĩa là được tham dự vào một thực tại lớn lao, thường tồn, bao trùm tất cả chúng sinh vạn vật. Nhưng một khi Sakyamâuni (mâuni là danh hiệu của người có lòng nhân ái) thấy được chân lý, thì ông đồng thời cũng cảm được lòng thương xót đối với chúng sinh đang lặn ngụp trong mê lầm, trong đau khổ. Nếu muôn loài chúng sinh là một, thì không ai có thể thực sự hạnh phúc, bao lâu mà chưa phải tất cả mọi người mọi loài trong vũ trụ và thế giới cũng được hạnh phúc. Do đó mà đức Phật đã trở về lại với các bạn đồng nghiệp sa môn ngày trước để trao đưa tin vui giải thoát, trở về lại với chúng sinh khắp nước mọi miền - và như thế trên 40 năm trường - để chỉ bày con đường chân thức, giác ngộ và giải thoát. Hai lời thệ nguyện của những người theo chân đức Phật đã nói lên mối tương quan giữa thấy chân lý và lòng thương xót: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Hiểu biết và thương xót, chân lý và từ bi, đó là những hệ quả thiết yếu của sự giác ngộ về chân tâm và chân thức.

Kinh nghiệm của đức Phật đã đưa Ngài tới chân tâm, chân thức không phải qua giáo lý trừu tượng, cũng không phải qua ăn chay hành xác nghiệt ngã, nhưng là qua trầm tĩnh quán chiếu và thiền định. Thật là một điều lạ lùng, vô cùng lạ lùng: Làm thế nào mà thiền định lại có thể đưa đến sự nhìn nhận được chân tâm, chân thức? Đứng về tri thức luận mà bàn, thì ta có thể nói lên một chân lý như sau: Bạn chỉ biết trà ngon khi bạn đích thân uống trà, chứ không phải bạn nghe kẻ khác nói trà ngon. Đây là vấn đề tri thức và cảm nghiệm, tri thức phân biện trừu tượng và trí huệ thấu thị trực kiến. Dĩ nhiên thiền định trọn nghĩa không chỉ là trong khi ngồi, nhưng còn là trong trọn cả cuộc sống, không chỉ là tập trung tư tưởng, nhưng còn là gồm cả khắc kỷ tu thân, ý thức trên mọi hành động và hợp thông với chân lý tối cao cũng như với muôn loại chúng sinh; thiền định như thế gồm cả cuộc sống trong Giới, ĐịnhTuệ.