Trong những bài chia sẻ được giới thiệu trước đây, trên diễn đàn nầy, tôi đã quảng diễn và nhấn mạnh những trọng điểm như sau :
Thứ Nhất, ngôn ngữ là con dao hai lưỡi. Khi được sử dụng một cách máy móc, tự động, trong cuộc sống hằng ngày, phương tiện nầy có thể mang đến nhiều ngộ nhận, trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi, giữa người với người. Nó dẫn khởi nhiều xung đột, thậm chí giữa hai vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái...
Tuy nhiên, cũng nhờ vào ngôn ngữ, chúng ta phát hiện được những sào huyệt mê cung của Vô Thức. Từ đó, chúng ta có thể từ từ chuyển hóa Vô Thức thành Ý Thức, trên con đương xây dựng và phát huy Bản Ngả cũng như những quan hệ cần thiết giữa người với người.
Thứ Hai, nhờ con đường ngôn ngữ, chúng ta mang ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những xúc động tiêu cực, tê liệt, tràn ngập và ngụy trang, thậm chí đã lâu ngày bị dồn nén, ức chế, chối từ hoặc che giấu. Khi được diễn tả một cách rõ ràng, trung thực như vậy, khổ đau, cho dù khốc liệt, oái oăm và nhức nhối, không thể biến thân thành những phương tiện bạo động bùng nổ ra bên ngoài, hay là xói mòn, tiêu hủy lòng tự tin của chúng ta, ở bên trong nội tâm.
Thứ Ba, ngôn ngữ cũng là con đường diệu vợi cho phép chúng ta bộc lộ với anh chị em đồng bào, tấm lòng đồng cảm, thái độ nhìn nhận và chất lượng làm người của chúng ta, một cách đơn phương và vô điều kiện. Không đòi hỏi, chờ đợi « một cử chỉ có thiện chí », từ phía người đối diện, rồi khi đó chúng ta mới chấp nhận làm người có hiểu biết và tình thương.
***
*
Bài chia sẻ nầy sẽ quảng diễn thêm một cách rộng rãi hơn, điểm thứ ba trên đây, bằng cách đề nghị những bước đi lên cụ thể, khi xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người với người.
- Trong Bước số Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi nhau, hai lãnh vực « Người và Việc ».
Hẳn thực, trong đời sống làm người, bao lâu chúng ta chưa chấp nhận và tôn trọng quyền khác biệt của người khác đang có mặt với chúng ta, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ chung sống hài hòa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến trình lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc.
Trái lại, trong lãnh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những vùng hội tụ hay là trung gian, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ý « cùng với nhau nhìn về một hướng », không chia sẽ một số giá trị chung, chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn cho nhau và với nhau.
Trong Bước số Hai, tôi sẽ nhấn mạnh thêm : Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích cực, cụ thể và khách quan với nhau, cho nhau và nhờ nhau. Không có kẻ thua. Trái lại, trong mỗi quan hệ hài hòa và đồng cảm, cùng đích cần nhắm tới là vấn đề thành người.
Lẽ đương nhiên, khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên - người và chúng ta - sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta không chờ đợi, đòi hỏi phải có kết quả cụ thể, trong địa hạt thương lượng, rồi mới dấn bước trên con đường làm người. Một bên là tiến trình. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm người. về phía tôi. Tôi thực hiện những điều cần thực hiện.
Sau cùng, trong Bước số Ba, tôi sẽ trình bày : đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân thực hiện một cách khoa học. Pải chăng từ ngày hôm nay, không trì hoãn, chúng ta có trách nhiệm xây dựng những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đình, thậm chí với đứa con vừa đi ra khỏi lòng mẹ, chưa hoàn toàn ý thức về mình. Trách nhiệm ấy thuộc bản sắc làm người của chúng ta.
Thứ Nhất, ngôn ngữ là con dao hai lưỡi. Khi được sử dụng một cách máy móc, tự động, trong cuộc sống hằng ngày, phương tiện nầy có thể mang đến nhiều ngộ nhận, trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi, giữa người với người. Nó dẫn khởi nhiều xung đột, thậm chí giữa hai vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái...
Tuy nhiên, cũng nhờ vào ngôn ngữ, chúng ta phát hiện được những sào huyệt mê cung của Vô Thức. Từ đó, chúng ta có thể từ từ chuyển hóa Vô Thức thành Ý Thức, trên con đương xây dựng và phát huy Bản Ngả cũng như những quan hệ cần thiết giữa người với người.
Thứ Hai, nhờ con đường ngôn ngữ, chúng ta mang ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những xúc động tiêu cực, tê liệt, tràn ngập và ngụy trang, thậm chí đã lâu ngày bị dồn nén, ức chế, chối từ hoặc che giấu. Khi được diễn tả một cách rõ ràng, trung thực như vậy, khổ đau, cho dù khốc liệt, oái oăm và nhức nhối, không thể biến thân thành những phương tiện bạo động bùng nổ ra bên ngoài, hay là xói mòn, tiêu hủy lòng tự tin của chúng ta, ở bên trong nội tâm.
Thứ Ba, ngôn ngữ cũng là con đường diệu vợi cho phép chúng ta bộc lộ với anh chị em đồng bào, tấm lòng đồng cảm, thái độ nhìn nhận và chất lượng làm người của chúng ta, một cách đơn phương và vô điều kiện. Không đòi hỏi, chờ đợi « một cử chỉ có thiện chí », từ phía người đối diện, rồi khi đó chúng ta mới chấp nhận làm người có hiểu biết và tình thương.
***
*
Bài chia sẻ nầy sẽ quảng diễn thêm một cách rộng rãi hơn, điểm thứ ba trên đây, bằng cách đề nghị những bước đi lên cụ thể, khi xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người với người.
- Trong Bước số Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi nhau, hai lãnh vực « Người và Việc ».
Hẳn thực, trong đời sống làm người, bao lâu chúng ta chưa chấp nhận và tôn trọng quyền khác biệt của người khác đang có mặt với chúng ta, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ chung sống hài hòa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến trình lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc.
Trái lại, trong lãnh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những vùng hội tụ hay là trung gian, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ý « cùng với nhau nhìn về một hướng », không chia sẽ một số giá trị chung, chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn cho nhau và với nhau.
Trong Bước số Hai, tôi sẽ nhấn mạnh thêm : Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích cực, cụ thể và khách quan với nhau, cho nhau và nhờ nhau. Không có kẻ thua. Trái lại, trong mỗi quan hệ hài hòa và đồng cảm, cùng đích cần nhắm tới là vấn đề thành người.
Lẽ đương nhiên, khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên - người và chúng ta - sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta không chờ đợi, đòi hỏi phải có kết quả cụ thể, trong địa hạt thương lượng, rồi mới dấn bước trên con đường làm người. Một bên là tiến trình. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm người. về phía tôi. Tôi thực hiện những điều cần thực hiện.
Sau cùng, trong Bước số Ba, tôi sẽ trình bày : đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân thực hiện một cách khoa học. Pải chăng từ ngày hôm nay, không trì hoãn, chúng ta có trách nhiệm xây dựng những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đình, thậm chí với đứa con vừa đi ra khỏi lòng mẹ, chưa hoàn toàn ý thức về mình. Trách nhiệm ấy thuộc bản sắc làm người của chúng ta.
***
Bài Chia Sẻ Một - Phân biệt giá trị của Người
Và kết quả cụ thể Việc
Khi nói đến Người, chúng ta nói đến những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người với nhau, trong tất cả mọi hoàn cảnh chung sống, thuộc đời sống gia đình, cũng như thuộc địa hạt xã hội. Ngay từ giây phút đầu tiên, lúc đứa bé vừa ra chào đời, em đã cần kết dệt những quan hệ với người mẹ, hay là với một người nuôi nấng, đùm bọc em giống như một người mẹ. Nhờ đó, em mới có khả năng sống và thành người. Chính người mẹ cũng cần phải thiết lập những quan hệ với đứa con và bao nhiêu người khác, mới có thể chu toàn vai trò làm người và làm mẹ một cách tốt đẹp.
Hẳn thực, suốt cuộc sống làm người, từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời, những mạng lưới quan hệ chằng chịt sẽ dạy cho tôi ba bài học chủ yếu :
Bài học thứ nhất : Giữa người khác và tôi có những nét khác biệt « đương nhiên và ắt có ».
Quyền khác biệt ấy thuộc bản sắc làm người và cần phải được tôn trọng. Bằng không, chất lượng làm người của cả hai người - người không biết tôn trọng và người không được tôn trọng - đều bị tổn thương trầm trọng. Ngoài ra, nhờ khác biệt, người ấy và tôi có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau, trên suốt tiến trình làm người. Người khác nói được là một tấm gương soi, trong đó tôi nhận ra khuôn mặt xinh đẹp của tôi, cũng như bao nhiêu đường nhăn và vết thẹo...Trong một vài tôn giáo và nền văn hóa, xưa và nay, người khác được coi như là một « Hồng Ân ». Ít nhất về mặt lý thuyết, họ là « vị đại diện hữu hình của Thượng Đế Vô Hình », đang có mặt với tôi, trên những chặng đường xuôi ngược của cuộc đời.
Tuy nhiên, cũng vì những nét khác biệt ấy, bao nhiêu tranh chấp, xung đột, thiên kiến, hận thù... cũng có thể bùng nổ, giữa người ấy và tôi. Chính Triết gia người Pháp J.P.SARTRE đã khẳng định : « người khác là hỏa ngục ».
***
Bài học thứ hai : Giữa người khác và tôi, cũng có rất nhiều điểm GIỐNG NHAU, cho dù người nầy sinh ra ở Nam và kẻ kia xuất phát từ miền Bắc.
Nhờ vào những đồng điểm ấy, hai người có thể « xích lại gần nhau » và yêu nhau. Dưới một khía cạnh nào đó, họ nhận thấy mình là « một phần nửa » của nhau, đã cùng nhau « chia sẻ một bào thai », trong cung lòng của một mẹ và một cha. Giống như những cặp vợ chồng trẻ trung ở miền Bình Trị Thiên, họ không ngần ngại gọi nhau là Mình. « Mình với Ta, tuy hai mà một. Ta với Mình, sao một mà hai ? »
***
Bài học thứ ba : Người khác và tôi CẦN nhau, trong rất nhiều công việc hoặc dự án, tốt cũng như xấu, xây dựng, tích cực cũng như tiêu cực và phá hoại.
Hẳn thực, theo lối nhìn của nhà tâm lý xã hội CRÈVECOEUR J.J. (1), khi tôi từ chối một cách rộn ràng bằng mồm miệng, cũng như khi tôi thinh lặng đồng lõa, tôi đều góp phần tích cực của mình, để nuôi dưỡng những trò chơi quyền lực, trong những xã hội rộng và hẹp, thuộc tầm cỡ hoàn vũ, hay là trong giới hạn chính trị của một khu vực. Theo lối nói ngày nay, chúng ta tất cả đều « liên đới với nhau », đều « đồng trách nhiệm ». Ai ai cũng đóng góp phần mình, khi có một « con sâu đang đục khoét », trong lòng xã hội. Hẳn thực, tôi không hối lộ. Nhưng tôi đã làm gì trong những giới hạn của tôi ? Tôi vẫn mua vé chợ đen, khi lên tàu, để có chỗ ngồi đàng hoàng, thoải mái. Tại các cơ sở y tế, tôi nhờ cậy người quen thân, để được ưu tiên « không sắp hàng » chờ đợi, như bao nhiêu người khác...Chính vì những lý do đó, thay vì phê phán, tố cáo kẻ khác có tác phong « tùy tiện », có lẽ tôi hãy bắt đầu nhìn mình : tôi đang « tùy tiện » ở đâu, trong những chu vi hoạt động của tôi ? Ngược lại, tôi cũng có khả năng « làm con én nho nhỏ tạo nên mùa xuân », trong những tầng sâu thăm thẳm của nội tâm tôi. Từ điểm xuất phát đó, con én ấy sẽ dần dần làm « vết dầu loang », cho người khác. Nếu chất lượng thực sự của chúng ta là hương, tự khắc mùi thơm sẽ lan tỏa ra chung quanh. Để làm người, ai ai cũng cần CHO. Và đồng thời, chúng ta cũng đang NHẬN lại rất nhiều, từ bốn phương thiên hạ. Xin và cho thuộc bản chất làm người. Tuy nhiên, CHO không phải là từ trên ban phát một cách trịch thượng. XIN không phải là chối từ quyền lợi và giá trị tự tại của mình. Khi cho, chúng ta nhận mình là người truyền thừa một gia tài vô tận, trong chính con tim và cuộc đời làm người. Khi xin, chúng ta ý thức mình luôn luôn « làm đứa con » trong lòng Trời Đất, không đòi hỏi, không đặt điều kiện. Xin là nhìn nhận mình đang được thương yêu. Trong cuộc sống, dưới chế độ Vô Thức, trái lại, quan hệ xin-cho có nguy cơ đánh mất bản chất cao quí và trọng đại, bằng cách bị xuyên tạc và thoái hóa, thành đồ hàng hóa mua chác, chiếm hữu, kiểm soát, đút lót...
Nữ Thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhận thức được cả ba bình diện « Khác, Giống và Cần », trong mỗi quan hệ làm người, nhất là trong địa hạt tình yêu giữa Biển và Thuyền (2) :
« Từ ngày nào chẳng biết,
« Thuyền nghe lời Biển khơi.
« Cánh hải âu sóng biếc
« Đưa Thuyền đi muôn nơi.
« Lòng Thuyền nhiều khát vọng,
« Và tình Biển bao la.
« Thuyền đi hoài không mỏi,
« Biển vẫn xa... còn xa.
(...)
« Chỉ có Thuyền mới hiểu
« Biển mênh mông nhường nào.
« Chỉ có Biển mới biết
« Thuyền đi đâu, về đâu.
« Những ngày không gặp nhau,
« Lòng Thuyền đau rạn vỡ.
« Nếu từ giả Thuyền rồi,
« Biển chỉ còn sóng gió. »
Xuyên qua hai hình tượng Biển và Thuyền, phải chăng Xuân Quỳnh đã gọi mời chúng ta cảm nghiệm thế nào là quan hệ giữa người và người, trong những nét đẹp tinh tuyền, nguyên khởi của nó : NHẬN mà không cần xin nài, than vản. CHO mà không đòi hỏi lòng biết ơn.
Phải chăng đó là cốt tủy của tình mẹ con, trong những tháng ngày đầu đời của chúng ta ?
Phải chăng người mẹ, như tôi đã nói tới, khi trình bày Phương Pháp Phân Tâm Học của FREUD, đang làm Siêu Ngã cho đứa con của mình. Đang ở trên , để có một lối nhìn bao quát và toàn diện, không quên sót điều gì. Đang ở trên , để có thể dễ dàng bảo đảm sự có mặt tích cực của mình, về tất cả những gì mà đứa con đang cần. Đang ở trên , như con gà mẹ ấp ủ bầy con, dưới đôi cánh , một đàng để tạo lại hơi ấm của bào thai. Đàng khác, để đứa con cảm thấy mình an toàn, trước mọi hiểm họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Người mẹ ở trên, làm Siêu Ngã . Nhưng không độc tài, đàn áp. Không cưỡng chế, ép buộc.
Người mẹ ở trên. Nhưng « ở trên » để có thể đồng hành và chia sẻ, nhờ một lối nhìn bao quát và toàn diện.
Người mẹ ở trên , nhưng đồng thời cũng « ở trong » và « ở với », đặt mình vào vị trí của con, để hiểu con, như chính đứa con hiểu mình. Vui với con, Cười với con. Bi bô với con. Đưa bàn tay xoa bóp, vuốt ve nhẹ nhàng, để đứa con cảm thấy có mẹ đi theo mình, vào giấc ngủ.
Và khi đứa con thức dậy, mở mắt ra, sau một giấc ngủ ngon lành, hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mặt bé, là nụ cười hạnh phúc của mẹ. Hình ảnh khách quan nầy phát sinh, trong đứa con, một cảm nghiệm hạnh phúc và vui sướng : Mẹ có mặt, để đón nhận mình. Tôi là một nhân vật « quan trọng và có ý nghĩa », đối với mẹ.
Trái lại, khi đứa con khóc, một nhu cầu đang từ từ chớm nở trong nội tâm. Và đồng thời, nhờ nhu cầu ấy tác động, trẻ em sẽ mơ tưởng một đối tượng, có khả năng thỏa mãn ước mơ của mình. Chính khi đó, hình ảnh người mẹ xuất hiện bên ngoài, trùng hợp với hình ảnh mà đứa con đang ước mơ bên trong. Nhờ sự trùng hợp nầy, đứa bé có thể phát huy lòng tự tin, cảm thấy mình có khả năng « sáng tạo » bà mẹ theo khuôn khổ và tầm ước mong cụ thể của mình. Cốt lõi của Bản Ngã nằm ở trong ý thức về khả năng nầy. Và cốt lõi nầy sẽ từ từ lớn dần. Bản Ngã của đứa bé sẽ xuất hiện, nhờ bà mẹ biết làm Siêu Ngã, đúng lúc, đúng chất lượng và đúng liều lượng, đối với thực tế và nhu cầu của đứa con.
Quan hệ Mẹ Con, trong những đường hướng tích cực và xây dựng như vậy, là mẫu thức nguyên tượng, nguyên thủy cho mọi quan hệ giữa người với người. Làm người, trong tinh thần và lăng kính ấy, bao gồm ba chiều hướng :
Thứ nhất, tôi làm người « cha mẹ » cho người khác, để soi sáng và nâng đỡ họ.
Thứ hai, tôi làm người « đồng hành và chia sẻ », để biến cuộc đời vô vị, tầm thường, thành một tác phẩm đầy ý vị và lạ thường.
Thứ ba, tôi làm một « đứa con hạnh phúc », để phản ảnh hạnh phúc của cha mẹ, chính khi quí vị chọn lựa « nằm bên ướt, để nhường lại bên ráo », cho tôi nằm.
Với những lối nói riêng bịệt, tác giả Stephen R. COVEY (3), cũng đề xuất ba đường hướng tương tự, cho mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người :
- Điểm một : Khi tiếp xúc, chúng ta lắng nghe người khác, để tìm hiểu họ, thay vì đợi chờ người khác phải hiểu mình,
- Điểm hai : Khi tiếp xúc, mục tiêu cần thành đạt là « Người thắng, tôi thắng. Cả hai cùng thắng với nhau, nhờ nhau ».
- Điểm ba : Trong mọi quan hệ hài hòa, xây dựng và tích cực, người và tôi « tương sinh, tương thành, tương tức và tương tạo ». Cơ hồ, trong quan hệ mẹ con, mẹ sinh con ra, tạo mọi điều kiện cho con thành người. Nhưng đứa con cũng đang nuôi lại mẹ, với nụ cười, với tiếng nói líu lo, với thái độ « vùi đầu vào lòng mẹ », để thỏ thẻ : « Mẹ ơi, con thương Mẹ ». Nó đang cho lại bà mẹ, những gì bà đang cần, để ngày ngày bà có thể làm người. Trong tiếng Anh, Stephen R. COVEY đã sử dụng một từ thời trang « Synergizing ». Syn có nghĩa là cho nhau, với nhau. Ergizing, hình thức rút gọn của Energizing, có nghĩa là tạo ra năng động, nhiệt lực, hứng khởi, sức mạnh. Trong tinh thần và lăng kính nầy, Synergizing có nghĩa là « Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao ». Synergizing là cùng nhau tạo nên một nguồn năng lực lớn lao, phát xuất từ hai thành tố đầu tiên, nhưng bây giờ đang nhân ra thành ngàn lần, triệu lần to lớn hơn nguồn gốc ban đầu. Từ Ergizing còn có một xuất xứ khác trong tiếng Hy Lạp là Erg, có nghĩa là hành động, tác động. Cho nên hiện tượng cộng hưởng sẽ xảy ra - synergizing - khi hai người tác động qua lại hai chiều trên nhau. Nói khác đi, khi hai người hợp tác với nhau, họ có khả năng « đồng hành và chia sẻ ». Khi họ hoạt động, họ có với nhau « một trăm cánh tay ». Khi họ cứu xét một vấn đề, họ có cùng nhau « một trăm bộ óc, một trăm cặp mắt ». Khi họ lắng nghe, họ có với nhau « một trăm đôi tai ».
***
Khi nói đến « NGƯỜI », xuyên qua tất cả những nhận xét trên đây, chúng ta đã nói đến « một TIẾN TRÌNH làm người ». Trên con đường ấy, không ai làm ông chủ. Không ai là người đã « tới nơi » hay là đã thực sự « đạt cùng đích ». Và cũng không ai làm đầy tớ. Không ai có quyền lèo lái, điều khiển, áp đặt và chỉ đạo người khác từ trên, từ ngoài. Không ai có quyền coi kẻ khác là công cụ, đồ vật. Ai ai cũng được kêu mời làm người và coi trọng quyền làm người của kẻ khác, dù người ấy đang là một đứa bé sơ sinh, vừa đi ra khỏi cung lòng của mình.
Trái lại, khi nói đến « VIỆC », chúng ta không thể không nhắm tới những kết quả cụ thể. Trong công việc, chúng ta phải biết Thương Lượng. Khởi điểm là những nét khác biệt, trong cách ghi nhận tin tức, trong cách thuyên giải, tìm ra ý nghĩa, hay là trong những phản ứng xúc động, cũng như trong các thể thức thiết lập những quan hệ trao đổi. Nhưng tận điểm là nơi HỘI NGỘ, là những điểm đồng ý với nhau, hay là một số giá trị đang được cùng nhau chia sẻ. Và trong cuộc sống làm người, chỗ nào có hội ngộ, chỗ ấy có minh đức. Minh Đức vừa là Anh Sáng, vừa là Năng động. Vừa là Hiểu biết, vừa là Tình thương.
***
Bà Chia Sẻ số Hai : Người và Việc không được
đồng hóa lẫn lộn vào nhau
Khi nói đến Việc, chúng ta nhắm tới những kết quả cụ thể, thích hợp cho cả hai người đang trao đổi và thương lượng với nhau. Trong điều kiện hiện tại, họ và chúng ta đang có những sở thích, nhu cầu và giá trị khác nhau. Đó là lẽ thường tình, tất yếu. Cho nên, khi họ và chúng ta cảm nghiệm những quan hệ tranh chấp và xung đột, con đường cần dấn bước là sáng tạo một cách hữu hiệu và khoa học vùng giao tiếp, hội tụ. Trên đó, quyền lợi, nhu cầu của cả hai bên đều được coi trọng.
Lẽ đương nhiên, người và việc, trong thực tế cụ thể, đang giao thoa chằng chịt và khắng khít vào nhau, chồng chéo lên nhau một cách phức tạp, đến độ chúng ta nhiều khi không biết phải bắt đầu tháo gỡ từ chỗ nào.
Vì thiếu lối nhìn đứng đắn và phương pháp giải quyết hữu hiệu, nhiều người chấp nhận hy sinh hay là xóa bỏ những quyền lợi riêng tư của mình, để bảo tồn những quan hệ tốt đẹp với kẻ khác.
Nhằm bênh vực cách làm nầy, những người ấy thường lặp đi lặp lại và đề cao câu tục ngữ : « Một sự nhịn, chín sự lành ».
Trong thực tế cụ thể, họ NHỊN ở ngoài mặt. Nhưng trong nội tâm, một tiếng nói cứ ngày đêm lải nhải bên tai họ, trách mắng họ : « Mày dại khờ. Mày hèn nhát. Mày để cho kẻ khác chèn ép, ức hiếp mày ». Rốt cuộc, trong những điều kiện như vậy, « chín điều lành » không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, họ có thể trầm mình trong những hội chứng buồn lo, hay là mất ăn, mất ngủ, khó tiêu hóa...Nguyên nhân chính yếu của bao nhiêu hiện tượng tâm thần ấy là nhu cầu cơ bản của họ không được nhìn nhận, tôn trọng, thỏa mãn và đáp ứng.
Ngoài ra, rất nhiều người dễ lầm tưởng rằng : Để có một quan hệ hài hòa với một người, chúng ta PHẢI đồng ý với người ấy, trong tất cả mọi vấn đề. Chúng ta PHẢI chia sẻ mọi giá trị của người ấy.
Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa có khả năng đem ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những tầng lớp tin tưởng và qui luật vô thức như vậy, đã ăn đời ở kiếp từ bao nhiêu năm trong nội tâm, chúng ta vẫn tiếp tục bị khống chế : Chúng ta chưa « biết mình là ai », chưa trở thành Bản Ngả có ý thức độc lập và tự lập nhạy bén và sáng suốt.
Khi nói đến Bản Ngã, chúng ta cũng dễ lầm tưởng rằng : đó là một kết quả « hoặc có hoặc không ». Trong thực tế sinh động của cuộc sống hằng ngày, trái lại, Bản Ngã là một tiến trình « vừa có vừa không », làm bằng những bước đi, những bài học, những thất bại và những thành công, không ngừng tiếp nối nhau. Bản Ngã là một hiện thực rất phức tạp.
Nhìn lại cuộc đời, tôi nhận thấy tôi đã vi phạm nhiều lỗi lầm. Những ý định đã có mặt trong nội tâm của tôi, không phải luôn luôn là những ý định trung trực. Thêm vào đó, trong lứa tuổi « ăn chưa no lo chưa tới », tôi đã góp phần, tạo nên nhiều vấn đề tranh chấp và xung đột, khi sống và làm việc với bạn bè đồng liêu.
Mặc dù vậy, tôi vẫn là con người có giá trị. Ngày hôm nay, một số bạn bè luôn luôn thương tôi. Về mặt luân thường, tôi không phải là thánh nhân, cũng không phải là ác quỉ. Trên bình diện khả năng chuyên môn và nghề nghiệp, trong thời gian phục vụ trẻ em chậm phát triển, tôi đã tạo niềm tin cho những học sinh, mà cha mẹ đã giao phó cho tôi. Trên bình diện lý tưởng, tôi đã kinh qua những chặng đường « ba chìm bảy nổi tám lênh đênh », và tôi không ém nhẹm những hèn yếu và phản bội ấy. Nhưng cũng nhờ đó, tôi học được bài học « đồng cảm và tha thứ » đối với những ai « mang tiếng bỏ cuộc, đầu hàng », trên bước đường làm người.
Xuyên qua bao nhiêu nhận xét cụ thể ấy, tôi muốn khẳng định một số điểm rất quan trọng sau đây :
Nhờ vào khả năng sống và xây dựng những quan hệ đặt nền tảng trên tình người, tình đồng bào, tình nhân loại, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua những tình huống tranh chấp và xung đột, khi hai người hoặc hai phe đang có những quyền lợi khác biệt nhau.
Mặc dù vậy, chúng ta không gắn chặt vào nhau hai lãnh vực « Người và Việc ». Chúng ta không dẹp bỏ quyền lợi và nhu cầu chính đáng của mình, chỉ vì để duy trì một quan hệ tốt đẹp với những người cùng chung sống.
Chúng ta cũng đừng lừa gạt mình, khi nêu ra lý do « Bản sắc, Bản Ngã », để phủ nhận quyền lợi và nhu cầu làm người của kẻ khác. Bản Ngã là một con đường hay là một tiến trình cần xây dựng và phát huy cũng như đổi mới, từng ngày. Bản Ngã không bao giờ là một tận điểm bất di bất dịch. Nói cách khác, chúng ta không thể làm người, chừng nào chúng ta không biết coi trọng quyền làm người cơ bản của người khác. Trái lại, khi chúng ta, một cách đơn phương, vô điều kiện, tìm cách thăng tiến chất lượng làm người của kẻ khác, chính chúng ta cũng đang đi lên, tiến tới trên con đường thành người.
Nói tóm lại, trong cả hai lãnh vực Người và Việc, một đàng chúng ta cần ý thức và khẳng định nhu cầu cơ bản và chính đáng của mình. Đàng khác, không những chúng ta tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác, chúng ta còn có trách nhiệm « đồng cảm » với họ, bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu làm người của mình.
Nhu cầu, như tôi đã nhấn mạnh trong nhiều bài chia sẻ, thường có mặt ở đằng sau mỗi xúc động. Nói rõ hơn, bốn thành tố Nhu Cầu, Xúc Động, Yêu Cầu và Giới Hạn giao thoa chằng chịt với nhau. Khi xây dựng quan hệ hài hòa cũng như khi thương lượng, chúng ta cần phải ý thức một cách sáng suốt về sự có mặt của bốn thành tố ấy.
Ý thức như vậy có nghĩa là xác định, với những phương tiện như : gọi ra ánh sáng, kêu tên, diễn tả bằng ngôn ngữ, tìm phương tiện đáp ứng và thỏa mãn.
-Người và Tôi cần gì ? (nhu cầu),
- Người và Tôi cảm nghiệm thế nào ? (xúc động),
- Người và Tôi muốn gì ? (yêu cầu hay là ước vọng),
- Người và Tôi không thể chấp nhận những điều kiện khách quan nào ? (giới hạn hay là ngưỡng khổ đau).
Nếu ngày ngày, chúng ta học tập, tôi luyện, để phát huy ý thức về bốn thành tố trên đây, nơi người khác cũng như trong chính bản thân mình, chúng ta đang ở trên con đường làm người hay là trở thành Bản Ngã. Đồng thời, chúng ta cũng đang tạo điều kiện năng động, giúp đỡ kẻ khác làm người với chúng ta, như chúng ta.
Bài Chia Sẻ số BA : Xây dựng Quan Hệ
một cách « vô điều kiện », với sáu bước đi tới
Khi chúng ta xây dựng quan hệ giữa người với người, mục đích mà chúng ta cần nhắm tới là lắng nghe, tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Chúng ta không nuôi ẵm ý đồ thay đổi kẻ khác, tìm cách lèo lái hay là ép buộc họ nhận làm của mình những quan điểm chủ quan của chúng ta. Tiến trình xây dựng nầy vẫn có mặt, khi chúng ta thương lượng với mục tiêu cụ thể là thành đạt những đồng thuận. Với kết quả khách quan nầy, người khác tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của tôi, cũng như tôi tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của kẻ khác. Cho dù kết quả cuối cùng nầy không thành đạt, tôi vẫn coi trọng tính người và tình người của kẻ khác. Không vì một lý do nào, tôi tranh giành độc quyền làm người cho tôi và tìm cách hạ bệ kẻ khác xuống hàng « phế liệu bỉ ổi ». Nói khác đi, tôi không thể nhân danh bất kỳ một lý tưởng nào, cho dù cao cả đến đâu, để truất phế quyền lợi và giá trị làm người của kẻ khác.
Tôi chọn lựa « thái độ sống và làm » như vậy, « một cách đơn phương, vô điều kiện », thậm chí khi kẻ khác hô hào bôi nhọ và truất phế tôi. Tôi tiếp tục xây dựng những quan hệ hài hòa và tôn trọng , đối với kẻ khác, mặc dù họ không đáp ứng, trong ngôn ngữ và hành động của mình.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, Bài Chia Sẻ Số Ba nầy sẽ giúp chúng ta xác định một cách cụ thể và rõ ràng những bước đi lên, hay là những tác động, cần được thực hiện, trên tiến trình xây dựng quan hệ giữa người với người.
Trên con đường làm người nầy, tôi không lẻ loi, cô đơn một mình. Nhiều tác giả có tầm cỡ quốc tế như R. FISHER, D. STONE, Stephen R. ROGER, Marshall B. ROSENBERG, Gerald JAMPOLSKY...(4), và nhất là NGUYỄN TRÃI, trong lòng Đất Nước Đại Việt, đang có mặt với tôi. Sức mạnh nội tâm của những vị ấy đang là động cơ thúc đẩy tôi tiến tới, mặc dù con đường còn hiểm trở, đầy chông gai.
Tiến trình xây dựng quan hệ tích cực và hài hòa bao gồm sáu bước quan trọng sau đây (5) :
Bước thứ nhất : Vừa tình vừa lý,
Bước thứ hai : Lắng nghe và hiểu biết,
Bước thứ ba : Diễn tả, thông đạt một cách rõ ràng trực tiếp, không úp mở, ngụy trang,
Bước thứ bốn : Khả tín trong ngôn ngữ và hành động. Đồng thời, kiểm chứng một cách khoa học những tin tức, trước khi tin lời nói của kẻ khác,
Bước thứ năm : Trau dồi khả năng thuyết phục, khi thương lượng, thay vì đàn áp, cưỡng chế, nhất là dùng bạo động ép buộc kẻ khác đồng ý, ký tên,
Bước thứ sáu : Nhìn nhận và đón nhận giá trị làm người của kẻ khác, bất kể họ là ai.
***
Bước thứ nhất : Coi trọng Lý và lắng nghe Tình
Khi dấn bước vào con đường xây dựng quan hệ, cũng như khi thương lượng về những quyền lợi cụ thể và chính đáng, Tình và Lý là hai tiếng nói cần được coi trọng và lắng nghe, một cách đồng đều.
Lý nằm trong địa hạt tư duy, suy nghĩ, lý luận, lối nhìn hay là thuyên giải. Khi lý không được coi trọng, một cách đúng tầm, chúng ta sẽ không biết mình đi về đâu, đi trên con đường nào, đi với phương tiện nào, đi theo thứ tự nào...Lý là ánh sáng soi đường dẫn lối, nhất là về những điều cần làm, những cạm bẫy nên tránh.
Một cách đặc biệt, chúng ta vận dụng lý, trong 4 địa hạt khác nhau :
Địa hạt thứ nhất : khảo sát những vấn đề cụ thể mà chúng ta đang gặp, bằng cách trả lời những câu hỏi : điều gì, thế nào, tại sao, với ai, ở đâu...
Địa hạt thứ hai : xác định nguồn gốc hay là nguyên nhân đã gây ra cho chúng ta những khó khăn hiện thời. Thông thường, chúng ta quay về quá khứ, để khảo sát khía cạnh nầy.
Đia hạt thứ ba : khám phá và liệt kê những đường hướng giải quyết hay là những phương pháp tiếp cận, trong đó có những chủ thuyết hiện hành đang được ứng dụng trong nhiều môi trường khác nhau. Trong địa hạt nầy, chúng ta hướng đến tương lai gần và xa, để tìm ra những chân trời rộng mở.
Địa hạt thứ bốn : những bước cụ thể cần thực hiện, theo một chương trình hay là kế hoạch dài hoặc ngắn hạn. Ở đây, chúng ta đi từng bước khoan thai, không nôn nóng muốn đến điểm hẹn ngay lập tức. Chúng ta không thúc ép hoặc cưỡng bức chính mình. Không đứng núi nầy trông núi nọ. Giờ phút hiện tại được chúng ta đón nhận như một quà tặng cao quí. Le présent est un présent. Từ présent trong vế đầu có nghĩa là hiện tại. Từ thứ hai có nghĩa là một món quà, một của lễ.
Một cách cụ thể, trong vấn đề thương lựơng có tính khoa học, chúng ta cũng đi lên từng bước một, kinh qua những giai đoạn thiết yếu y hệt như vậy.
Giai đoạn Một : Liệt kê những vấn đề của cả hai bên.
Giai đoạn Hai : Xác định những quyền lợi hay là lợi ích, mà mỗi bên đặt lên bàn thương thuyết ( interests).
Giai đoạn Ba : Cả hai bên ngồi lại khảo sát với nhau những con đường có thể chọn lựa, khả dĩ thỏa mãn từng quyền lợi của mỗi bên (options).
Giai đoạn Bốn : Khảo sát những tiêu chuẩn khách quan, hợp lý, hợp pháp của mỗi con đường có thể chọn lựa, và được cả hai bên chấp thuận ( criteria).
Giai đoạn Năm : Cùng nhau quyết định và chọn lựa những điểm đồng ý (agreements).
Giai đoạn Sáu : Đề xuất một lối thoát « tôn trọng tình người và tính người » cho cả hai bên, khi công cuộc thương lượng không mang lại những kết quả đồng thuận mong muốn (alternatives).
Mặc dù với bao nhiêu cách làm hợp lý ấy, chúng ta không thể không ngồi lại, cùng nhau lắng nghe « những vết thương lòng rướm máu » của nhau. Xúc động là động cơ thúc đẩy chúng ta làm người. Quên mất yếu tố « Tình », chúng ta chỉ là gỗ đá. Chúng ta không còn là con người. Và khi không cưu mang chất người trong lòng mình, làm sao chúng ta có thể thương lượng ? Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ biết « dùng lý của kẻ mạnh », nghĩa là đi vào con đường súng ống, bom đạn, hận thù, chết chốc và lầm than...
Trong phần HAI vừa qua, tôi đã nói khá nhiều về lắng nghe, nhìn nhận, tìm hiểu, tôn trọng. Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều :
Duy những ai đã bị khổ đau nghiền nát trong cuộc đời, mà vẫn có khả năng vùng đứng lên, người ấy đang có một kho tàng lớn lao, trong nội tâm : « biết ĐỒNG CẢM » với mình và với người khác. Với một tấm lòng « đầy Hiểu Biết và Tình Thương » nầy, chúng ta mới có thể lắng nghe lời của NGUYỄN TRÃI :
« Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,
« Vun trồng CÂY ĐỨC, nuôi con ăn. »
***
Bước thứ hai : Tìm hiểu kẻ khác
Tìm hiểu kẻ khác bao gồm nhiều động tác ăn khớp với nhau như : lắng nghe kẻ khác, đi lại con đường tư duy của họ, đặt ra những câu hỏi cụ thể và chính xác, để yêu cầu họ giải thích cho chúng ta khung qui chiếu của họ.
Hẳn thực, khung qui chiếu bao gồm nhiều thành tố tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Và mỗi người có một khung qui chiếu riêng biệt, độc đáo, trên con đường tư duy của mình, mặc dù bộ sườn hướng dẫn vẫn luôn luôn bao gồm bốn thành tố :
- Thành tố thứ nhất là thể thức thâu lượm và ghi nhận những tin tức do môi trường cung ứng,
- Thành tố thứ hai mang tên là « Tiến trình tư duy ». Ở đây, những động tác được chúng ta thực hiện mang nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo sở thích và thói quen của mỗi tác giả : Nhận thức, lối nhìn, quan diểm chủ quan, thể thức thuyên giải, những nấc thang suy luận, cách thế nhìn đời, vũ trụ quan. Tên gọi bên ngoài đã khác nhau. Huống hồ khi đi vào nội dung cụ thể, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ý kiến. Người xưa đã có những nhận xét tương tự, trong câu nói « Bá nhân, bá tánh ». Một trăm người có mặt, sẽ trình bày một trăm cách thấy khác nhau.
- Thành tố thứ ba là những tình trạng của nội tâm, bao gồm nhiều xúc động. Và trong lãnh vực nầy, như trên đây tôi đã nói tới, chúng ta cần phân biệt : nhu cầu, yêu cầu, giới hạn, phản ứng nội tâm với rất nhiều danh hiệu khác nhau.
- Thành tố sau cùng nằm trong địa hạt quan hệ tiếp xúc và trao đổi.
-Khi lắng nghe và tìm hiểu khung qui chiếu của kẻ khác, thái độ mà chúng ta cần ôm ẵm, tôi luyện và mài nhọn, mỗi ngày, là hiếu kỳ, thích học hỏi. Và bài học khó khăn nhất, trong lòng cuộc đời là « biết mình và nhận mình đã SAI LẦM ». Sở dĩ như vậy, vì « Tư Duy Độc Lộ » và « Tư Tưởng NHỊ NGUYÊN » đang trấn áp cõi lòng của mỗi người. Với tư duy độc lộ, chúng ta chỉ thấy một con đường duy nhất : tôi đúng, kẻ khác sai. Với tư tưởng nhị nguyên, trái lại, chúng ta giành phần tốt cho mình và coi kẻ khác là phế liệu, đồi trụy và ngụy phản.
***
Bước thứ ba : Diễn tả mình và thông đạt một cách trong sáng
Trong bốn nghìn năm văn hiến, chúng ta đã phải trải qua « Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ». Cho nên, vì lý do sống còn và chiến đấu chống ngoại xâm, chúng ta đã tạo cho mình một thói quen hào hùng là « có mặt khắp mọi nơi, biến mất bất kỳ lúc nào, không ai hay, không ai biết ». Duy tiếng « Dạ », hoặc tiếng « Vâng » của chúng ta cũng có hai nghĩa « đồng ý » và « không đồng ý ». Một cách nào đó, mỗi lần phát biểu, tôi luôn luôn muốn cho kẻ khác phải hiểu rằng : Tôi nói vậy, nhưng không phải vậy. Trường hợp tôi sai lầm, tôi vẫn còn có lý do, để tự biện minh.
Thêm vào đó, cách giáo dục và dạy dỗ của các Thiền sư, trong ba Triều Đại phồn thịnh là Lý, Trần và Lê, luôn luôn đề cao phương pháp « vô ngôn », và khinh thường lời lẽ dài dòng, luộm thuộm. Cho nên, chúng ta không có thói quen « nói nhiều, nói hết, nói đúng đích, nói cho đến nơi đến chốn ». Chúng ta có xu thế « gợi ý », đưa tay « chỉ mặt trăng », và không bao giờ phát huy nhu cầu « đụng đến mặt trăng », với hai tay chứng nghiệm.
Ngoài ra, vì đất nước của chúng ta nhỏ bé, bên cạnh một lãnh thổ lớn lao có vị thế và uy quyền lâu đời, chúng ta khôn ngoan, không muốn đương đầu, trực diện, nhìn thẳng mặt. Chúng ta có kế sách « thu mình lại », hay là « rút vào hang động », như con chuột, trên đường di động của con voi đồ sộ, nặng nề, dập nát tất cả những gì không biết lẩn tránh ra hai bên.
Trong điều kiện và thân phận của con người, mọi phương tiện đều có tính lưỡng năng, cơ hồ con dao hai lưỡi, vừa có ích trong khía cạnh nầy, vừa gây tai hại ở một khía cạnh khác. Nếu chúng ta quá đề cao một phương tiện, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng : không có một phương tiện nào khác, ngoài cách làm độc đáo của chúng ta.
Trong vấn đề diễn tả và thông đạt, chúng ta cũng còn ở trong một tình thế lưỡng năng như vậy. Chúng ta tự đặt mình trong điều kiện khẩn trương và chiến đấu. Cho nên chúng ta luôn luôn quyết định một mình, không cảm thấy nhu cầu phải tham khảo những người khác. Hệ quả của tình trạng nầy là chúng ta thông đạt « một chiều ». Kẻ khác có bổn phận lắng nghe và thừa hành. Họ không có quyền « góp ý và phản hồi ». Thêm vào đó, sau bao nhiêu năm hòa bình, chúng ta vẫn còn giữ lại thói quen của thời chiến, luôn luôn ngụy trang mỗi tin tức phát ra. Nói đúng hơn, chúng ta úp úp, mở mở... đến độ chỉ chúng ta mới hiểu chúng ta muốn nói gì. Nếu người khác không hiểu, hỏi lại... họ sẽ bị chúng ta gắn vào một nhãn hiệu là « kém thông minh, không bén nhạy... », hay là « có ý đồ phản động, chống đối... »
Tôi cố tình phân tích một cách cặn kẻ như vậy, nhằm gây ý thức rằng : làm người, chúng ta không thể không học. Học mỗi ngày. Học với mọi người, thậm chí với một trẻ sơ sinh, vừa ra khỏi lòng mẹ.
* Bài học thứ nhất là lắng nghe một cách trân trọng, khi kẻ khác nói.
* Bài học thứ hai là biết nêu ra những câu hỏi, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác diễn tả, chia sẻ con người đích thực của mình.
* Bài học thứ ba là nói về thực tại, thực tế và thực chất của mình. Hẳn thực, không ý thức về mình, không cưu mang trong mình một mục đích, một chí hướng rõ ràng và trong sáng, làm sao chúng ta có thể nói. Nói phải chăng là chia sẻ chính mình một cách trung thực, thay vì lượn lẹo ?
Tất cả những gì tôi đang có, trong bản thân và cuộc đời, đều là quà tặng, do kẻ khác mang đến cho tôi. Tất cả những gì tôi ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH, là quà tặng, tôi có trách nhiệm chia sẻ lại cho người khác, nhất là những thế hệ đến sau tôi. Khi chia sẻ như vậy, chúng ta hãy có gan nói về mình, dùng sứ điệp « Ngôi Thứ Nhất số ít ». Chính tôi đã thấy. Chính tôi đã nghe. Chính tôi đã cảm. Chính tôi đã có kinh nghiệm. Chính tôi đã CHỨNG NGHIỆM. Tôi không lặp lại như keo vẹt, những lời đồn thổi hay là những dư luận không có căn cứ. Tôi không bịa đặt. Tôi không vẽ vời sự thật để quảng cáo và tuyên truyền cho cá nhân của tôi.
Chia sẻ như vậy không phải là lên mặt mô phạm, dạy đời. Nhưng là dâng hiến một tấm tấm lòng làm người, cho anh chị em đồng bào, đồng loại, đúng như NGUYỄN TRÃI đã nói, cách đây hơn năm thế kỷ :
« Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ.
« Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ».
***
Bước thứ tư : Khả tín và tin vào người
Trong đọan nầy, tôi muốn nhấn mạnh hai điều : Thứ nhất là sống làm sao, để xứng đáng với lòng tin của kẻ khác. Thứ hai là tin vào người khác, một cách sáng suốt và khôn ngoan. Không nhắm mắt tin, một cách mù quáng, trước khi kiểm chứng một cách khoa học những điểm tựa của lòng tin.
Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể trình bày một cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài trọng điểm như sau :
Thứ nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác và rõ ràng. Ví du, khi tôi hẹn với ai, tôi sẽ có mặt lúc sáu giờ chiều, tôi không thể nhẫn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ, thường thường... Phương pháp « năm ngón tay » của A : ROBBINS, mà tôi đã giới thiệu khi bàn về Vô Thức, trong một bài chia sẻ, có thể giúp tôi phát huy lòng tin nơi kẻ khác (6).
Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết không phải là chân lý. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những bình diện khác nhau, trên tiến trình tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất lòng tin của những ai nghe chúng ta.
Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc, đúng thể thức và đúng số liệu...Khi nói mà không làm, hay là làm một cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối.
Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán » : Nói và làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm.
***
Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là tin vào người, trong những điều kiện nào, với những mức độ như thế nào.
Trên bình diện nầy, người chủ động vẫn là chính chúng ta.
Khi lời nói của kẻ khác không rõ ràng, chúng ta hãy giúp họ mang đến cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết rõ vào giờ ấy bạn hay bị cản trở, vì công việc bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết trước lúc bảy giờ, có được không ?
Trường hợp kẻ khác đã lỗi hẹn, chưa hẳn vì họ giả dối, muốn lừa gạt hay là có ác tâm và ác ý. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ý muốn, vào phút cuối cùng, không thể tiên liệu, tiên phòng Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ bị té ngã, gãy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên, họ đã lỗi hẹn với chúng ta.
Trường hợp kẻ khác thuộc hạng người không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa hẳn vì họ xấu về mặt luân lý hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang làm cho họ kiệt quệ, về mặt ý chí và trí nhơ, nên họ không bao giờ có khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết.
Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lãnh vực quan hệ giữa người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có thái độ lắng nghe, tìm hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin tức mà chúng ta đã thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người ấy vẫn được chúng ta kính trọng, vì họ là người. Trong đa số trường hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ, để dần dần trở nên khả tín, đối với những người khác.
***
Bước thứ năm : Thương lượng và thuyết phục, thay vì cưỡng chế
Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRÃI là tấm gương sáng ngời, không những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đã xác định phương hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng :
« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,
« Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. »
Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang còn thống trị, trong tâm hồn, con người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ đang còn làm « chó sói » đối với nhau, như người La Tinh đã có nhận xét, cách đây hơn một nghìn năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta chỉ thuyết phục, soi sáng, thay vì cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh trừng, khi kẻ khác không đồng ý với chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như một của chúng ta, và không biết coi trọng phía bên kia đang có những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng như thế nào.
Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả tư cách làm người như chúng ta, ngang chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lý, hợp pháp và hợp tình được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật cho bên kia.
Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm người với mình, giống như mình. Và như trước đây tôi đã nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết làm người với nhau như vậy, họ có « một trăm con mắt », để nhìn. « Một trăm lỗ tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả tim », để làm người và làm NGƯỜI anh em (7).
***
Bước thứ sáu : Nhìn nhận và Chấp nhận nhau
Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi người khác và chúng ta không chấp nhận nhau, MỘT CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ tình người. Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của nhau.
Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất yếu sau đây :
Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn mình tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.
Thứ hai, con người ấy đã trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta tìm hiểu, đồng cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng ta.
Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi dưỡng và phát huy lòng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.
Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở, cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy mình rõ hơn, với bao nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người khác.
Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm gì, thuộc lứa tuổi nào... cũng đang bổ túc cho chúng ta, ở một phương diện cụ thể nào đó. Cho nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho bản thân và cuộc đời của mình. Trong Sa Mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A. Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm một mình giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và lòng biết ơn. Anh mắt và đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng Ân » làm cho ông đã chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người, với con người, nhờ con người.
Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể trình bày một cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài trọng điểm như sau :
Thứ nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác và rõ ràng. Ví du, khi tôi hẹn với ai, tôi sẽ có mặt lúc sáu giờ chiều, tôi không thể nhẫn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ, thường thường... Phương pháp « năm ngón tay » của A : ROBBINS, mà tôi đã giới thiệu khi bàn về Vô Thức, trong một bài chia sẻ, có thể giúp tôi phát huy lòng tin nơi kẻ khác (6).
Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết không phải là chân lý. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những bình diện khác nhau, trên tiến trình tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất lòng tin của những ai nghe chúng ta.
Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc, đúng thể thức và đúng số liệu...Khi nói mà không làm, hay là làm một cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối.
Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán » : Nói và làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm.
***
Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là tin vào người, trong những điều kiện nào, với những mức độ như thế nào.
Trên bình diện nầy, người chủ động vẫn là chính chúng ta.
Khi lời nói của kẻ khác không rõ ràng, chúng ta hãy giúp họ mang đến cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết rõ vào giờ ấy bạn hay bị cản trở, vì công việc bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết trước lúc bảy giờ, có được không ?
Trường hợp kẻ khác đã lỗi hẹn, chưa hẳn vì họ giả dối, muốn lừa gạt hay là có ác tâm và ác ý. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ý muốn, vào phút cuối cùng, không thể tiên liệu, tiên phòng Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ bị té ngã, gãy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên, họ đã lỗi hẹn với chúng ta.
Trường hợp kẻ khác thuộc hạng người không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa hẳn vì họ xấu về mặt luân lý hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang làm cho họ kiệt quệ, về mặt ý chí và trí nhơ, nên họ không bao giờ có khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết.
Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lãnh vực quan hệ giữa người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có thái độ lắng nghe, tìm hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin tức mà chúng ta đã thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người ấy vẫn được chúng ta kính trọng, vì họ là người. Trong đa số trường hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ, để dần dần trở nên khả tín, đối với những người khác.
***
Bước thứ năm : Thương lượng và thuyết phục, thay vì cưỡng chế
Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRÃI là tấm gương sáng ngời, không những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đã xác định phương hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng :
« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,
« Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. »
Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang còn thống trị, trong tâm hồn, con người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ đang còn làm « chó sói » đối với nhau, như người La Tinh đã có nhận xét, cách đây hơn một nghìn năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta chỉ thuyết phục, soi sáng, thay vì cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh trừng, khi kẻ khác không đồng ý với chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như một của chúng ta, và không biết coi trọng phía bên kia đang có những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng như thế nào.
Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả tư cách làm người như chúng ta, ngang chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lý, hợp pháp và hợp tình được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật cho bên kia.
Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm người với mình, giống như mình. Và như trước đây tôi đã nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết làm người với nhau như vậy, họ có « một trăm con mắt », để nhìn. « Một trăm lỗ tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả tim », để làm người và làm NGƯỜI anh em (7).
***
Bước thứ sáu : Nhìn nhận và Chấp nhận nhau
Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi người khác và chúng ta không chấp nhận nhau, MỘT CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ tình người. Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của nhau.
Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất yếu sau đây :
Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn mình tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.
Thứ hai, con người ấy đã trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta tìm hiểu, đồng cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng ta.
Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi dưỡng và phát huy lòng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.
Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở, cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy mình rõ hơn, với bao nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người khác.
Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm gì, thuộc lứa tuổi nào... cũng đang bổ túc cho chúng ta, ở một phương diện cụ thể nào đó. Cho nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho bản thân và cuộc đời của mình. Trong Sa Mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A. Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm một mình giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và lòng biết ơn. Anh mắt và đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng Ân » làm cho ông đã chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người, với con người, nhờ con người.
Tháng 8 năm 2008
Notre Dame de FATIMA
CH-1694 ORSONNENS/Fr
Suisse
NGUYỄN Văn Thành
Bí Chú :
1) J.J. CRÈVECOEUR – Relations et Jeux de Pouvoir – Equinoxe 21, Toulouse 1999
2) 100 bài thơ tình – Nhà XbGiáo dục, Hà Bội 1993
3) Stephen R. COVEY – The 7 habits of higly effective people – Simon&Schuster, London 1989
4) D.STONES – Difficult conversations – M.Joseph, London 1999
M.B. ROSENBERG – Nonviolent Communication –
Puddle Dancer Press, CA 2001
5) Roger FISHER – Getting Together – Business Books, London l889
Roger FISHER – Getting to Yes – Penguin Books, N.Y. 1991
Roger Fisher – Beyond Machiavelli – Tools for coping
with conflict – Harvard University Press, London 1994
6) R. ROBBINS Unlimited Power : a Black choice –
Simon&Schuster, N.Y.1997
NGUYỄN Văn Thành – Sơn Tinh và Thủy Tinh – TN,
Lausanne Mùa Thu 2003
7) NGUYỄN Văn Thành – Đồng Cảm để Đồng Hành –
Tình Người 2003
Tác giả: Nguyễn Văn Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét