Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2009

Chuyển Biến Vô Thức Thành Ý Thức Để Làm Người Với Một Tấm Lòng Bao Dung (Thể theo khoa phân tâm trị liệu của Freud)

Trong mọi môi trường sinh hoạt hiện nay của xã hội, con người đang bị VÔ THỨC khống chế một cách trầm trọng. Cho nên, những khó khăn xuất hiện khắp mọi nơi, làm ô nhiễm những quan hệ giữa người với người. Bạo động trào dâng khắp tứ phía.
Nhằm nhận diện và đối diện những khó khăn ấy, đang gây nhiễu động trong nhiều lãnh vực như tôn giáo, chính trị, giáo dục…, tôi xin mao muội giới thiệu ba ý tưởng then chốt dưới hình thức ba bài chia sẽ như sau :
1.- Vô Thức là gì ?
2.- Vô Thức có một sức mạnh tàn phá hãi hùng, khi bị ức chế và giam giữ trong những hang động vòng vo, luẩn quẩn của nội tâm,
2.- Vô Thức cũng còn là một thách đố diệu vợi, nếu được phát hiện và gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một cách khoa học, với từng bước đi lên.

***

Bài chia sẻ số Một : Vô Thức là gì ?

Theo quan điểm của FREUD, nhà sáng lập Phân Tâm Học, Nội tâm bao gồm ba thành tố hay là ba cơ cấu tổ chức, khác biệt nhau, nhưng có những liên hệ mật thiết với nhau và thường xuyên tác động qua lại hai chiều trên nhau.
Cấu trúc thứ nhất là Tự Ngã,
Cấu trúc thứ hai là Siêu Ngã,
Cấu trúc thứ ba là Bản Ngã.

1.- Tự Ngã
Cấu trúc Tự Ngã còn mang tên là « Cái Ấy » (le Ça trong tiếng Pháp và The Id trong tiếng Anh). Cấu trúc nầy thành hình và xuất hiện rất sớm, trước hai cấu trúc kia. Xét về phương diện thứ tự thời gian, cấu trúc Tự Ngã đã có mặt, khi đứa bé đang còn là một thai sinh, trong lòng mẹ.
Nội dung của Tự Ngã bao gồm nhiều Xung Năng (Pulsion trong tiếng Pháp, hay là Urge và Drive trong tiếng Anh).
Để hiểu rõ một phần nào xung năng là gì, trong đời sống của một đứa bé sơ sinh, chúng ta cần phân biệt những yếu tố sau đây :
- Thứ nhất, xung năng là những sức ép hay là sức đẩy bật hướng đến sự sống, hoàn toàn tự nhiên và phản xạ, phát xuất từ những tầng sâu trong cơ thể của đứa bé. Khi đạt tới cao điểm, trong những chu kỳ và nhịp độ biến chuyển, xung năng sẽ tạo nên cho đứa bé, một tình trạng bực bội, khó chịu, căng thẳng... thúc ép nó đi tìm một đối tượng ở bên ngoài, để được giải tỏa, khai phóng và thỏa mãn.
- Thứ hai, trong những năm đầu tiên của cuộc sống, đứa bé còn ở trong tình trạng hoàn toàn vô thức và lệ thuộc. Các em chưa thể nhận biết xung năng của mình là gì, bắt nguồn từ đâu, hướng đến mục đích gì, đối tượng nào có thể đáp ứng và thỏa mãn. Các em chưa thể nào tự mình giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Các em chưa có khả năng dùng lời nói, để giải thích cho kẻ khác biết các em đang cảm nghiệm thế nào và đang có những nhu cầu như thế nào.
- Thứ ba, nhằm bộc lộ ra ngoài một cách khách quan, tình trạng bức xúc đang xảy ra trong nội tâm, các em chỉ có một số hành vi rất hạn chế như : khóc la, thét gào, vùng vẫy tay chân, thay đổi sắc mặt...
- Thứ bốn, lúc ban đầu duy người mẹ - hay là người thay thế mẹ - có mặt liên tục, suốt ngày đêm với đứa bé, mới có thể từ từ ý thức được nhu cầu của đứa bé và tìm cách đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu ấy. Chính vì lý do nầy, người mẹ được gọi là đối tượng đầu tiên, nguyên thủy của đứa bé mới sinh, trước tất cả mọi đối tượng khác. Đồng thời, người mẹ cũng đang đảm nhiệm vai trò « làm Siêu Ngã » cho đứa con.
- Thứ năm, trong ba năm đầu tiên của cuộc sống, nếu đứa bé không có mẹ và không có ai liên tục thay thế mẹ, trong vòng từ ba đến sáu tháng, em ấy sẽ phải chết, hay là trầm mình trong bệnh hoạn. Thể theo lối nhìn của Bác sĩ R. SPITZ, hội chứng « Thiếu Tình Thương » (carence affective hay là hospitalisme), đã bẻ gãy và vùi dập, trong đứa bé, mọi xung năng phát xuất từ sự sống và hướng đến sự sống (1). Nói cách khác, trước kia xung năng là một sức đẩy bật hướng đến sự sống. Bây giờ, vì sự sống không được đón nhận và nhìn nhận, xung năng đã đi vào con đường tàn lụi, hướng đến sự chết. Đó là Xung năng hướng đến sự chết. Lối nói được sử dụng trong tiếng Pháp là « pulsion de mort ».

2.- Siêu Ngã
Khi quan sát từ ngoài một đứa bé sơ sinh, trong những tháng ngày đầu tiên, chúng ta sẽ ý thức được thế nào là Tự Ngã, ở thể trạng thuần đơn, trước khi tiếp thu và hội nhập ảnh hưởng của hai cấu trúc kia là Siêu Ngã và Bản Ngã. Cuộc sống thường ngày, lúc bấy giờ, được phân chia thành 5 hoặc 6 chu kỳ. Mỗi chu kỳ bao gồm sáu giai đoạn tiếp nối nhau :
- Giai đoạn một : Giấc ngủ thâm sâu và bình lặng.
- Giai đọan hai : Giấc ngủ náo hoạt.
- Giai đoạn ba : Giai đoạn chuyển tiếp giữa ngủ và thức.
- Giai đoạn bốn : Tỉnh thức hoạt bát nhưng bình lặng.
- Giai đọan năm : Tỉnh thức náo động.
- Giai đoạn sáu : khóc la inh ỏi, trước khi trở lại giai đoạn một.

Một cách đặc biệt, vào giai đoạn Tỉnh thức hoạt bát và bình lặng (giai đoạn bốn), sau ngày sinh độ một tuần lễ, đứa bé đã bắt đầu vận dụng một cách năng động năm giác quan của mình, nhất là thị, thính và xúc giác.

Người lớn, nhất là bà mẹ, dựa vào ba giác quan chính yếu nầy, có thể kích thích đứa bé và trao đổi với em, miễn là bà biết tôn trọng một cách nghiêm chỉnh hai loại ngưỡng kích thích : không bao giờ ở dưới ngưỡng sơ khởi, không bao giờ vượt quá ngưỡng chịu đựng, còn được gọi là ngưỡng khổ đau.
Khi yếu tố kích thích ở dưới ngưỡng sơ khởi, đứa bé không phản ứng, không trả lời. Khi bà mẹ vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, tự khắc em sẽ có những phản ứng từ chối như khóc la, thét gào, rút lui, khép kín mình, ngoảnh mặt qua chỗ khác, múa động chân tay...
Trong cuốn sách « Quan Hệ Mẹ Con : bài học đầu tiên của cuộc sống », xuất bản năm 2000 (2), tôi đã trình bày và giới thiệu một số động tác cụ thể, mà bà mẹ hay là những người lớn trong gia đình có thể thực hiện, một cách dễ dàng, để tổ chức cuộc sống cho đứa bé sơ sinh, từ những ngày em mới sinh ra.
Khi tổ chức như vậy, người mẹ và những ai đang tiếp tay cho bà mẹ, đã bắt đầu đảm nhiệm « vai trò làm Siêu Ngã », nghĩa là từ từ chuyển biến Tự Ngã của đứa bé thành Bản Ngã, bằng cách cung ứng từ ngoài những khuôn khổ, những qui luật cũng như những đường hướng hoạt động.
Không có cái KHUNG « tạo an toàn » nầy, để đứa bé có thể nương tựa, qui chiếu và ngày ngày điều hướng cuộc đời, em sẽ suốt đời bơ vơ, loạn động, không có khả năng lớn lên, tăng trưởng, phát triển và trở nên người.
Sau nhiều năm quan sát, nghiên cứu, học hỏi... tác giả T.B. BRAZELTON đã đưa ra những điểm mốc sau đây (3):
- Chung quanh 3 tuổi, trẻ em cảm thấy rất quan trọng tất cả những gì mà em tự mình có thể làm ra,
- Khi trẻ em lên tới 5 tuổi, em sẽ cảm nghiệm chính con người của mình là « trung tâm » và « trọng tâm » của vũ trụ. Tất cả những điều còn lại đều là phụ thuộc, xoay vần chung quanh trung tâm ấy để phục vụ,
- Từ 6-7 tuổi trở lên, trẻ em bắt đầu có khả năng hướng mình ra bên ngoài, để học tập, tiếp thu những bài học về THỰC TẾ, và QUI LUẬT. Đây là yếu tố quyết định, cho cuộc sống thành người. Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa ý thức một cách rõ rệt về những khả năng và giới hạn cụ thể của mình, nghĩa là biết những gì mình làm được và những gì mình không có phép làm, chúng ta chưa thể TỰ LẬP và TRƯỞNG THÀNH, mặc dù tuổi đời đã vượt quá 20.
Để có thể thực thi và kiện toàn tiến trình xây dựng bản thân nầy, một đứa bé từ ngày sinh ra, cần bàn tay tổ chức và giúp đỡ của những người lớn trong gia đình, bắt đầu từ bà mẹ, là nhân vật gần gũi với em, hơn tất cả những người khác. Theo thuật ngữ của Phân Tâm Học, các vị ấy đang đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa bé, trong suốt tiến trình học làm người.
Vai trò làm Siêu Ngã bao gồm hai chức năng trọng yếu :
- Thứ nhất là soi sáng và hướng dẫn đứa bé về tất cả những gì em có thể làm hay là không thể làm. Đó là nguyên tắc thực tế (Réalité trong tiếng Pháp).
- Thứ hai là nâng đỡ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi, để em có thể từng bước đi lên, chấp nhận những bài học về qui luật làm người, một cách dễ dàng và hứng thú. Đó là nguyên tắc vui thích (Plaisir).
Thực ra, theo lối nhìn của Freud, thực tế và vui thích là hai bộ mặt khác nhau của một nguyên tắc duy nhất, trong cuộc sống làm người. Để trẻ em có thể tiếp thu và hội nhập một cách nhuần nhuyễn một bài học, trong bất kỳ lãnh vực nào, bài học ấy phải tạo vui thích và gây hứng thú cho trẻ em. Bằng không, em sẽ khước từ hay là bỏ cuộc giữa chừng. Đồng thời, bài học ấy phải tạo nên cho em một kỹ năng tinh nhuệ, khả dĩ giúp em sống tự lập sau này. Khoa Tâm Lý Sư Phạm càng ngày càng lắng nghe, tiếp thu và ứng dụng tin tức nầy, trong hai lãnh vực giáo dục và trị liệu.
Ngôn ngữ là một minh họa có khả năng giúp chúng ta hiểu rõ về mối liên hệ mật thiết giữa hai bộ mặt của nguyên tắc vui thích và thực tế. Sở dĩ trẻ em học nói huyên thuyên suốt ngày, vì em thích bắt chước người mà em thương mến. Đồng thời, nhờ biết nói, em có thể hiểu người khác và làm cho kẻ khác hiểu mình, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi bình thường hằng ngày.
Tuy nhiên, không phải bất cứ bà mẹ nào, khi sinh con ra, đều có khả năng làm Siêu Ngã, với những chuẩn mực quân bình và lành mạnh, như Freud đã đề xuất, nghĩa là hướng dẫn, soi sáng, thay vì áp đặt, cưỡng bức, ức chế, từ trên và từ ngoài. Thêm vào đó, để có thể hướng dẫn một cách hài hòa và hữu hiệu, bà mẹ phải học quan sát, lắng nghe đứa con của mình và tìm cách tiếp xúc, trao đổi với em. Những gì em đã bắt đầu làm được, bà mẹ sẽ khuyến khích em làm một mình, theo tốc độ của em. Không làm thay làm thế. Không bao che từ đầu chí cuối.
Có dịp quan sát cách làm của nhiều bà mẹ đem con đến khám tại phòng mạch của mình, Bác sĩ Phân Tâm D.W.WINNICOTT đã ghi nhận nhiều cách can thiệp khác nhau của các bà, sau khi họ nghe đứa con của mình khóc la , và đang có một vấn đề cần giải quyết(4).
Loại thứ nhất : bà mẹ trả lời quá sớm, trước khi đứa con có thì giờ cảm nhận hay là mơ tưởng, bằng một hình ảnh, vấn đề hiện tại của mình.
Loại thứ hai : bà mẹ trả lời quá chậm, sau khi đứa con thét gào và tỏ ra mệt mỏi, kiệt quệ, « đầu hàng », bỏ cuộc, vì không có ai lắng nghe, một cách đúng lúc và đúng tầm.
Loại thứ ba : cách thức bà mẹ trả lời không thích hợp với nhu cầu thực sự của đứa con. Ví dụ : đứa con bị ướt tã, khó chịu. Người mẹ lấy bình sữa ra, cho con bú.
Loại thứ bốn : bà mẹ trả lời theo nguyên tắc cố định, không tìm hiểu nhu cầu thực sự của đứa con nằm ở chỗ nào. Ví dụ : bây giờ là 4 giờ chiều. Theo ý của bà, bé khóc vì đòi cữ sữa thông lệ, đương khi nhu cầu thực sự của bé lúc ây là muốn đi ra chơi bên ngoài.
Loại thứ năm : bà mẹ trả lời, theo lối giải thích hoàn toàn tùy tiện và chủ quan, trước khi tìm cách kiểm chứng giả thuyết của mình. Ví dụ : theo ý của bà mẹ, bé khóc ghen, vì mẹ nói chuyện với bác sĩ... đương khi lý do thực sự là bé sợ người lạ mặt.
Lẽ đương nhiên, như trên đây tôi đã đưa ra nhận xét, vì thân phận và điều kiện làm người, không một bà mẹ nào, ngay từ ngày đầu tiên, khi đứa con sinh ra, đã biết làm Siêu Ngã, một cách hoàn hảo và tuyệt vời. Sai lầm là lẽ thường tình, tự nhiên. Điều cốt yếu là bà mẹ biết học. Biết dừng lại, khi thấy mình sai lầm. Biết lắng nghe, tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm và kỹ năng tinh nhuệ, trong lãnh vực nuôi dạy con cái. Và điều tôi muốn nhấn mạnh, trước tất cả mọi điều khác, là : Bà mẹ hãy HỌC với đứa con của mình. Chính thái độ và tác phong của em sẽ giúp chúng ta điều chỉnh những gì đã sai lệch, kiện toàn những gì đã tốt đẹp, bổ túc những gì còn thiếu sót. Và khi đứa con đã biết nói, chúng ta hãy tiếp xúc, trao đổi, lắng nghe, tìm hiểu, tạo cho em một khung gian diễn tả, bộc lộ nhu cầu của mình.
Với những điều kiện hành xử như vậy, khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Thất bại hay là lầm lỡ nào cũng có thể trở thành một bài học hay là một kinh nghiệm quí hóa, trong vai trò làm Siêu Ngã hướng dẫn và giúp đỡ con cái thành người.
Hẳn thực, khi đứa con bắt đầu tỏ thái độ phản kháng, chống đối hay là bị động, lệ thuộc, chúng ta cần lập tức nêu ra câu hỏi : phải chăng tôi đang thao tác một loại Siêu Ngã quá độc tài và nguyên tắc hay là quá bao che và nương chìu, khi không cần thiết.
Trong thuật ngữ « Siêu Ngã », được Freud sử dụng, (Sur-moi trong tiếng Pháp và Super-ego trong tiếng Anh), hai từ được ghép lại với nhau. Từ thứ nhất là « Siêu », có nghĩa là « ở trên », về mặt ý thức và hiểu biết. Nói cách khác, để có thể soi sáng và hướng dẫn đứa con của mình, người mẹ cần có một lối nhìn bao quát, toàn diện, nghĩa là nhận ra những liên hệ mật thiết giữa những tầng lớp khác nhau trong nội tâm của đứa con. Ngoài ra, bà còn phải thấy được ảnh hưởng của nhiều yếu tố có mặt trong môi trường đang tác động, bằng cách nầy hay cách khác, trên cơ thể non yếu của bé.
Từ thứ hai là Ngã, nghĩa là người mẹ đã hành xử như một chủ thể, có khả năng làm chủ bản thân và cuộc sống của mình. Cho nên, bà có khả năng « đồng cảm » với đứa con. Hiểu biết em từ bên trong. Khám phá hay là phát hiện được những nhu cầu và nguyện vọng của em, mặc dù em chưa có điều kiện và phương tiện diễn tả những tình trạng nội tâm, và nhất là những xúc động buồn lo, tức giận, sợ hãi...
Những nhà Phân Tâm, thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba sau Freud, sẽ sử dụng thuật ngữ « Bản Ngã Trợ Tá », (le moi auxiliaire), để xác định vai trò của người mẹ, đối với đứa con của mình, ít nhất trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc sống. Hẳn thực, khi người mẹ làm « Bản Ngã Trợ Tá », bà đang tạo ra cho đứa con những điều kiện thuận lợi, để đứa con từ từ trở nên một Bản Ngả tự lập. Bà mẹ là một tấm gương soi, trong đó đứa con nhận thấy con đường đi tới của mình. Ngày ngày, bà là người « bắc nhịp cầu », hay là người « làm trung gian », để đứa con có thể rời bỏ bến bờ lệ thuộc và từ từ đi qua bến bờ tự lập và hiểu biết.
Thông thường, người mẹ đảm nhận công việc nầy, với tất cả vốn liếng tự nhiên và trực giác có sẵn của mình. Trái lại, những nhà Tâm Lý Trị Liệu đặc trách về các trẻ em có những rối loạn tiếp xúc hay là những hội chứng Tự Kỷ « Autisme » (sống bít kín, không hòa nhập với bạn bè cùng trang lứa), cần kinh qua hơn bốn năm học, với nhiều lý thuyết chuyên môn và thực tập, mới có khả năng làm « Bản Ngã Trợ Tá » cho những loại trẻ em nầy. Họ tìm cách « đồng hóa » với trẻ em, nhằm giúp trẻ em từ từ « ngoại hiện », nghĩa là « phóng ra ngoài » những xung năng đang bị ứ đọng và kềm kẹp, ở bên trong nội tâm. Nhờ đó, trẻ em mới có cơ may khám phá và thực tập đời sống tiếp xúc và trao đổi với những trẻ em khác cùng lứa tuổi.
Tôi cố tình nêu lên một vài nhận xét chuyên môn như vậy, để nhấn mạnh rằng : Bắc nhịp cầu trung gian hay là làm Siêu Ngã « đứng đắn và lành mạnh », để giúp kẻ khác trở thành người, trong những quan hệ tiếp xúc hằng ngày là trách nhiệm, mà mỗi người trong chúng ta cần phát huy và học tập, để phục vụ anh chị em đồng bào. Đó là một cách « dựng Nước và giữ Nước », chưa được chúng ta lưu tâm, một cách thiết thực và nghiêm chỉnh.

3.- Bản Ngã (le Moi hay là the Ego)
Từ ngày sinh ra cho đến lúc lìa đời, học làm người là một tiến trình không bao giờ có dứt điểm. Tuy nhiên, gần như ở khắp nơi, trên mặt địa cầu, xã hội thường ấn định hai điểm mốc quan trọng : 7 tuổi là tuổi biết suy luận và phân biệt điều nào tốt nên làm, điều nào xấu phải tránh. Chung quanh hai mươi tuổi là điểm mốc thứ hai. Từ đây, mỗi người bước vào tuổi trưởng thành, phải đảm nhận trách nhiệm, trước mặt xã hội, về tất cả những hành vi của mình.
Thế nhưng, trong thực tế, ai đã thực sự làm người trưởng thành ? Ai có thể khẳng định rằng : tôi đã trở thành một Bản Ngã, tôi đã biết mình tôi là ai, cần làm gì, có những giá trị nào. Một cách đặc biệt, những người đã chọn lựa cho mình một lý tưởng, trong tinh thần « hoàn toàn tự do và sáng suốt », phải chăng họ đã nắm vững mọi đường đi nẻo về của mình, trong lòng cuộc đời ?
Trước một thách đố lớn lao tình cờ xảy ra, ngoài mọi dự tính, tất cả chúng ta đều có nguy cơ « bị dao động, mất quân bình ». Lúc bấy giờ, chúng ta lại phải tìm cách trả lời những câu hỏi cơ bản :
- Tôi là ai ?
- Phải chăng tôi có những khả năng cần thiết, để đương đầu với những vấn đề đang xảy đến cho tôi ?
- Phải chăng tôi vẫn còn là con người có giá trị ?
- Phải chăng tôi luôn luôn là con người được yêu thương và tôn trọng, trong những quan hệ với bạn bè, người thân và những ai quen biết ?
- Trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại, tôi phải làm điều gì ? Điều nào là ưu tiên số một, cần được tôi thực thi, không trì hoãn ?
Trong những năm được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ trong gia đình, và suốt những tháng ngày được thầy cô và bao nhiêu người khác giáo dục, tại trường học và ngoài xã hội, phải chăng tôi đã được trang bị, một cách đầy đủ và kỹ lưỡng, để tiếp tục hiên ngang và can trường làm người, làm bản ngã ?
Cha mẹ tôi đã qua đời từ lâu, các thầy cô đã ra đi, khi nhiệm vụ hoàn tất... nhưng những « khuôn khổ », những bài học làm người, mà tôi đã tiếp thu và hội nhập với các vị, phải chăng đang còn là những vốn liếng sống động, quí báu có khả năng giúp tôi vượt qua những chặng đường gian truân ?
Nói một cách vắn gọn, phải chăng « cách họ dạy », hay là « cách họ làm Siêu Ngã » đang còn là động cơ thiết thực và hữu hiệu, ngày ngày thúc giục tôi HỌC làm bản ngã ? Ngày ngày làm kim chỉ nam, hướng dẫn tôi, trong chiều hướng học làm người ?
Sau khi QUÊN MẤT tất cả, tôi vẫn còn NHỚ được cái gì ? Điều nào đang luôn luôn sinh động cho tôi, với tôi và trong tôi, trên suốt con đường làm người, hay là làm bản ngã ?
Câu trả lời của tôi - bắt nguồn từ những bài học của Phân Tâm Học - bao gồm ba chiều hướng trọng yếu :
- Thứ nhất, làm bản ngả là BIẾT« đồng hành và chia sẻ » với bao nhiêu người khác đang chung sống hai bên cạnh. Sống làm người là một cuộc hành trình với nhiều bạn bè. Không ai là một cô đảo cô đơn, cô độc.
- Thứ hai, làm bản ngã là BIẾT « hướng dẫn và nâng đỡ » những người đang cần đến chúng ta, trong vấn đề vật chất, cũng như trên bình diện tinh thần. Ai ai trong chúng ta cũng đã thừa kế một gia tài. Đến lượt, chúng ta có trách nhiệm truyền lại gia tài ấy, cho người đến sau.
- Thứ ba, làm bản ngã là BIẾT « sống hạnh phúc » và « tạo hạnh phúc cho kẻ khác », với tất cả những vốn liếng sẵn có trong tầm tay của mình, không đứng núi nầy trông núi nọ, không chờ đợi có đủ mọi điều kiện, rồi mới bắt tay vào làm. Tạo hạnh phúc như vậy cũng là một cách « đồng hành và chia sẻ » với anh chị em đồng bào, đồng loại. Không một ai trong chúng ta là người hoàn toàn « vô sản ». Chúng ta đang có rất nhiều điều, để chia sẻ với người khác : một ánh mắt, một nụ cười, một lời yêu thương, một vành tai biết lắng nghe, một con tim « đồng cảm »...Sống hạnh phúc còn có nghĩa là « biết hóa giải hay là chuyển biến những khổ đau » đang xói mòn trong cuộc đời, ngày ngày trở thành vật liệu xây dựng bản thân.
Để có thể biết vận dụng ba con đường làm người trên đây, chúng ta không thể không HỌC. Học mỗi ngày. Học với mọi người. Học ăn, học nói, học gói, học mở.

***
Cách HỌC, vừa được nêu ra trên đây, theo lối nhìn của FREUD là không ngừng chuyển biến Vô thức thành Ý thức, biến điều chưa biết thành điều biết. Khi không biết hay là chưa biết, tôi sẵn sàng đặt ra câu hỏi và yêu cầu kẻ khác trả lời. Trái lại, khi nói về chính mình, tôi cần phân biệt một cách rõ ràng và chính xác điều nào thuộc về thực tế và thực tại của tôi, điều nào chỉ là giả định, suy đoán hay là thuộc về xu thế tổng quát hóa mà thôi.
Những điều tôi vừa đề xuất, xem ra có vẽ đơn sơ, hiển nhiên, thuộc khả năng bình thường của mỗi người, trong mọi tình huống tiếp xúc và trao đổi hằng ngày giữa người với người. Trong thực tế cụ thể, những cách làm ấy đòi hỏi một mức độ ý thức rất thành khẩn và bén nhạy, kết quả của bao nhiêu ngày tháng học hỏi, thực tập và tôi luyện. Chính vì những cách làm ấy chưa được coi trọng đúng tầm, « sau bốn nghìn năm văn hiến », chúng ta vẫn còn chưa « biết học ». Chúng ta chưa rút ra những kinh nghiệm làm người, từ lịch sử đầy máu xương và các câu chuyện Huyền sử. Ngày ngày, chúng ta vẫn còn « sắp hàng thành hai phe Sơn Tinh và Thủy Tinh », trong một chiến trận « nồi da xáo thịt » hay là « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Chúng ta tự hào đã thắng địch thù xâm lăng từ phương Bắc, phương Tây, phương Nam và phương Đông. Nhưng chúng ta đang ngã quị trước tên địch thù đã ăn đời ở kiếp, trong cõi lòng của chúng ta. Tên địch thù ấy là VÔ THỨC, còn mang tên là VÔ MINH trong Tâm Lý Phật Giáo.
Trong bài chia sẻ kế tiếp sau đây, chúng ta sẽ nhận diện và đối diện, bằng cách « gọi tên » người địch thù muôn hình và muôn mặt ấy.


Bài chia sẻ số HAI - Vô Thức : một chế độ sinh hoạt

Bái chia sẻ số Một trên đây đã cho chúng ta thấy : vào những ngày tháng đầu tiên, sau khi một đứa bé ra đời, Tự Ngã và Vô Thức trùng hợp và ăn khớp với nhau. Nhờ sự can thiệp của người mẹ và những người lớn khác trong gia đình, với tư cách là Siêu Ngả, Bản Ngã của đứa bé bắt đầu từ từ xuất hiện. Tuy nhiên, khi trở nên Bản Ngã, chưa hẳn đứa bé đã ý thức một cách trọn vẹn về tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong nội tâm của mình, thậm chí sau khi biết nói và có khả năng tư duy. Thêm vào đó, chính người mẹ khi đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa con, chưa hẳn bà đã ý thức một cách rõ rệt và sáng suốt về tất cả những gì bà đang làm, đang nói và đang cảm, khi tiếp xúc và trao đổi với đứa con. Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, Vô Thức hay là Vô Minh có nghĩa là « Không Biết, Ngu Muội, U Tối, hay là Đui Mù trên bình diện tâm linh ».
Một đàng, Vô Thức có mặt trong tất cả ba cấu trúc Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Đàng khác, Vô Thức luôn luôn len lỏi nằm vùng và tác động trong suốt cuộc sống làm người của mỗi cá nhân, ở giữa lòng xã hội. Cho nên, theo ý kiến của một số đồ đệ của Freud, nội tâm có hai cơ cấu tổ chức khác nhau : Một bên là cơ cấu bao gồm Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Cơ cấu thứ hai là chiến trường xung đột giữa hai thành tố : Vô thức và Ý Thức.
Theo lối nhìn của tôi, khi nói đến Vô Thức và Ý Thức, Freud không đề xuất thêm một cơ cấu tổ chức thứ hai của Nội tâm. Đó chỉ là hai chế độ sinh hoạt, hay đúng hơn, hai mức độ thức tỉnh, hai mức độ sáng suốt, hai mức độ hiểu biết, hai CHẤT LƯỢNG làm người. Cho nên, để trở nên Bản Ngã, chúng ta phải thường xuyên phát huy khả năng chuyển biến Vô Thức thành Ý Thức. Đành rằng, đó là một tiến trình không bao giờ kết thúc, chấm dứt và hoàn thành, bao lâu chúng ta còn mang thân phận làm người.


Sào huyệt thứ nhất của Vô Thức : ngôn ngữ được chúng ta sử dụng hằng ngày.

Khi người mẹ báo cáo với bác sĩ : « Đứa con của tôi rất khó tính. Nó khóc la và quấy rầy tôi suốt ngày. Tôi không làm được gì cả với bé », Vô thức của bà đã có mặt trong tất cả ba mệnh đề đơn sơ và vắn gọn ấy. Bà tưởng rằng : mỗi điều bà trình bày cho bác sĩ khám bệnh đều là những tin tức rõ ràng và chính xác.
Thực ra, nếu bác sĩ có những kiến thức chuyên môn về Phân Tâm Học, với những câu hỏi, ông sẽ có khả năng gọi Vô Thức của bà mẹ và đem Vô Thức ấy ra vùng ánh sáng của Ý Thức.
- Câu hỏi thứ nhất : « Bà vừa trình bày cho tôi nghe : đứa con của bà rất khó tính, có phải vậy không ? Bà làm ơn nói thêm cho tôi biết rõ hơn : cháu khó tính bằng cách nào, cháu làm gì cụ thể ? ». Ở dưới những lời khẳng định của bà mẹ, bác sĩ đã đào bới, yêu cầu bà tìm ra những tin tức cụ thể, những sự kiện khách quan. Trên đó, bà đã thiết lập những giả thuyết và rút ra những kết luận.
- Câu hỏi thứ hai : « Như bà vừa nói ra, đứa con của bà khóc la và quấy rầy bà suốt ngày. Suốt ngày có phải là suốt 24 tiếng đồng hồ, không bao giờ dừng lại ? ». Với câu hỏi nầy, bác sĩ đã gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một cơ chế tâm lý mang tên là xu thế phóng đại, cường điệu. Theo lối nói bình dân, đó là khuynh hướng « có bé xé ra to », hay là « vơ đũa cả nắm ».
- Câu hỏi thứ ba : « Như bà đã trình bày, bà không làm được gì cả với đứa con của bà. Nhưng thực ra bà muốn làm gì với cháu, mà bà không làm được ? ». Câu hỏi nầy nhằm giúp bà mẹ định nghĩa một cách chính xác, những động từ mà bà thường dùng. Hẳn thực, khi bà mẹ có một mục tiêu rõ rệt, ngang tầm phát triển của đứa con, bà sẽ có khả năng thực hiện và thành tựu mục tiêu ấy.
Một vài ví dụ đơn sơ và dễ hiểu như vậy cho chúng ta thấy được một phần nào : Vô Thức không phải là một « bí mật cao siêu, mầu nhiệm ». Trái lại, Vô Thức có mặt ở trước và bao quanh chúng ta. Nhưng chúng ta không thấy, không nghe, không cảm, vì Vô Thức đã trở thành tập quán, xương da, máu thịt của chúng ta.
Nhằm đánh thức và giúp chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong những quan hệ trao đổi hằng ngày, tác giả A. ROBBINS kêu mời mỗi người hãy nhìn năm ngón tay của mình, đặt ra những câu hỏi, trước khi trình bày, phát biểu một ý kiến (5).
Kỹ thuật năm ngón tay trái
- Một, ngón tay út phía bên trái, nhìn từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp sử dụng những từ như : luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi...chúng ta đặt ra cho mình câu hỏi : Luôn luôn không có ngoại lệ à? Tất cả không thiếu một ai cả sao?
- Hai, ngón tay đeo nhẫn. Các từ : phải, cần, không được, không nên, không thể. Câu hỏi : Ai đã đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái gì bắt buộc ? Điều gì cản trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?
- Ba, ngón tay giữa. Các động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác, đóng góp, thực hiện...Cách đặt câu hỏi : Hợp tác...bằng những cách làm cụ thể và khách quan nào ?
- Bốn, ngón tay trỏ. Các danh từ tổng quát và trừu tượng như : người Việt Nam, hòa bình, tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi : Người Việt Nam cụ thể là ai, tên gì, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Hòa bình là gì ? Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những gì ?
- Năm, ngón tay cái. Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít, quá nhiều, tốt hơn, quá xấu...Cách đặt câu hỏi : So sánh với ai, cái gì để quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?


Sào huyệt thứ hai của Vô Thức : Đúng-Sai, Có lý-Vô lý, Tốt-Xấu.

Khi khẳng định về ba cách đánh giá vừa được nêu ra, chúng ta đã ở vào giai đọan thứ ba của một tiến trình tư duy. Đành rằng người nghe chúng ta, sẽ không thể nào hay biết gì về hai giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Nhưng chính người phát biểu - là chúng ta - có ý thức đến hai giai đoạn kia hay không ? Bao nhiêu ngộ nhận, hiểu lầm và xung đột giữa chúng ta với người khác, đều bắt nguồn từ « những con đường tắt », hay là « những bước nhảy vọt » ấy.
Trở lại với tiến trình của Tư Duy - còn được gọi là những nấc thang của Suy Tư và Lý Luận - chúng ta cần phân biệt ba giai đoạn thiết yếu :
- Giai đoạn một : Lắng nghe, ghi nhận và tiếp thu những tin tức khách quan và cụ thể, do môi trường sinh hoạt cung ứng. Tôi thấy gì, tôi nghe gì, với đôi mắt và hai lỗ tai của tôi, chứ không phải do dư luận đồn thổi ?
- Giai đoạn hai : Từ những dữ kiện ấy, tôi đề xuất giả thuyết nào ? Tôi « thuyên giải làm sao », nghĩa là quyết định và chọn lựa ý nghĩa nào, giữa bao nhiêu con đường xuôi ngược khác nhau ?
- Giai đoạn ba : sau khi rà soát lại những tin tức và trắc nghiệm, kiểm chứng lại giả thuyết, tôi rút ra kết luận như thế nào ? Và với kết luận ấy, tôi nói gì, làm gì, cảm gì với con người xương thịt, cụ thể đang ở trước mặt tôi ?

Mặc dù với ba bước đi lên, được thực hiện và cân nhắc, một cách có hệ thống và khoa học, tôi vẫn còn phải thú nhận, với tất cả lòng thành tâm và khiêm tốn, rằng : kết luận cuối cùng của tôi chỉ là một lối nhìn CHỦ QUAN của tôi mà thôi. Một người khác, trong vai trò và vị trí hiện tại, cũng như với những điều kiện giáo dục và kinh nghiệm về cuộc sống... có thể có những tin tức hoàn toàn khác biệt. Từ đó, người ấy sẽ có một lối thuyên giải khác. Và kết luận cuối cùng của người ấy sẽ phản ảnh lợi ích riêng tư và quá trình học vấn của người ấy.
Dựa vào đâu, tôi khẳng định rằng : Tôi đúng, tôi có lý, tôi có toàn quyền về sự thật ? Phải chăng chỉ vì tôi đang ở dưới một « chế độ Vô Thức » ?
Để cùng nhau và giúp nhau dấn bước vào con đường Ý Thức, mỗi người trong chúng ta hãy nhìn nhận và đón nhận ba loại câu chuyện khác nhau :
- Câu chuyện « Ngôi Thứ Nhất » của tôi,
- Câu chuyện « Ngôi Thứ Hai » của người khác, đang nói chuyện và tiếp xúc với tôi,
- Câu chuyện « Ngôi Thứ Ba » của một bà mẹ đang « cưu mang cả hai chúng ta, trong cùng một bọc trứng », hay là của một người cha « có một con tim và bộ óc bao la như Đại Dương », đón nhận mọi dòng sông và con nước, từ bốn phương chảy về. Họa may, lúc bấy giờ, chân lý sẽ mượn con đường tình thương, đề mặc khải mình.
Thái độ duy nhất của những người đang nói chuyện với nhau là « cùng với nhau », AND stance. Trong tiếng Anh khoa học ngày nay, có những từ rất nhỏ, rất tầm thường, rất quen thuộc, ở đầu môi lưỡi của mọi người, thậm chí nơi một trẻ em vừa mới bập bẹ học nói. Nhưng giá trị của nó rất lớn lao, kỳ vĩ, về mặt làm người. AND có nghĩa là VÀ. Tôi chuyển dịch là « cùng với ». Trên con đường Ý Thức, cùng với bạn, tôi học lại một lối nhìn. Cùng với bạn, tôi nghe lại với vành tai xôn xao. Cùng với bạn, tim tôi phập phòng, trăn trở, thổn thức và đập nhịp, để nuôi sống mọi tế bào trong cơ thể. Để làm mới lại những quan hệ nối kết chúng ta, trong cùng một Trời Biển, trong cùng một Nước Non. Không có bạn, tôi mất đi một nửa con đường Ý Thức của tôi. Cho nên tôi lại phải đắm chìm trong bóng đêm mịt mù của Vô Thức triền miên.


Sào huyệt thứ ba của VÔ THỨC : Ý Định của bạn và của tôi.

Mặc dù không có dịp được trang bị về Phân Tâm Học, thi sĩ Xuân Diệu đã có những lối nhìn xuất sắc về Vô Thức (6) :

« Ai đem phân chất một mùi hương,
« Hay bản cầm ca, tôi chỉ thương,
« Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc,
« Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.
« Làm sao cắt nghĩa được Tình Yêu ?
« Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
« Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
« Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu ... »
Hẳn thực, phải chăng trước khi yêu ai, tôi đã biết ngồi lại, cân nhắc, đánh giá một cách bình tĩnh và sáng suốt, để rồi sau đó tôi có thể một lần dứt khoát chọn lựa và quyết định, mà không sợ mình đã sai lầm ?
Theo lối nhìn của Tâm lý đương đại, trong địa hạt tình yêu, cũng như trong bao nhiêu sinh hoạt khác, không bao giờ chúng ta có khả năng quyết dịnh , một cách dứt khoát, trong chỉ một lần. Trái lại, để cho tình yêu đâm chồi, nảy lộc, nở hoa và kết trái, ngày ngày chúng ta phải chọn lựa lại, quyết định lại. Từ xưa, tổ tiên và cha ông chúng ta đã nhắn nhủ : Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân. Mỗi ngày, đổi mới. Mỗi ngày, đổi mới lại. Càng ngày càng đổi mới. Bằng không, chúng ta chỉ là « hồn ma phiêu bạt », sống cũng không ra sống. Chết cũng không chết hẳn. Cho nên, chúng ta chỉ là gánh nặng, cho nhiều người cùng chung sống.

Khi nói về ý định -của bạn, của tôi hay là của một ai khác- chúng ta cũng cần có một lối nhìn sáng suốt và thức tỉnh như vậy :
- Thứ nhất, ý định phát xuất từ nhiều tầng sâu của nội tâm. Trong đó, vừa có lối nhìn của tư duy soi sáng hướng dẫn, vừa có những xúc động đang động viên và thúc đẩy tôi.
- Thứ hai, duy chỉ tôi mới có thể biết ý định của tôi. Tuy nhiên, cái biết ấy rất hạn chế. Còn bao nhiêu yếu tố khác đang thoát ra ngoài vòng ý thức của tôi.
- Thứ ba, những ai khác, ngoài tôi ra, không thể nào biết ý định của tôi, ngoại trừ sau khi tôi bộc lộ mình cho người ấy. Trường hợp họ đinh ninh rằng họ biết, là vì họ đang bói đoán hay là dự tưởng mà thôi. Đó không phải là cái biết phát xuất từ suy luận, bởi vì họ không thể nào có những dữ kiện khách quan, để xây dựng tiến trình tư duy của họ.
Không có những kiến thức cơ bản và rõ ràng về ý định như vậy, chúng ta dễ áp đặt cho kẻ khác, những ý định không có mặt trong nội tâm của người ấy. Chúng ta chỉ « phóng ngoại » những gì đang nung nấu, trong cõi lòng của chúng ta mà thôi. Khi phóng ngoại như vậy, tôi đang chiếu lên khuôn mặt của kẻ khác, một cuốn phim xoay vần trong nội tâm của tôi.
Ngược lại, khi kẻ khác áp đặt cho tôi một ý định, điều quan trọng, khả dĩ tạo nên những quan hệ xung đột, hận thù giữa tôi và người ấy, không phải chỉ là ý định mà thôi. Nhưng là vết thương lòng lở lói, do thái độ của người ấy tạo nên, trong lảnh vực xúc động và tình cảm của tôi. Chính vì lý do đó, mặc dù người ấy đã rút lại lời nói của họ hay là cải chính tin tức đã đưa ra, vết thương lòng của tôi vẫn cứ rướm máu, nhức nhối. Hận thù vẫn tiếp tục. Xung đột vẫn kéo dài.
Để thoa dịu và hàn gắn vết thương trong tâm hồn của một người, như tôi sẽ nói tới, trong những đoạn sau này, là NHÌN NHẬN và ĐÓN NHẬN vết thương xúc động của người ấy. Chỉ biết chừng đó, chúng ta đã bắt đầu có khả năng nâng cao chất lượng làm người, trong bản thân của chúng ta và trong đời sống của nhiều người khác.
Thêm vào đó, chúng ta nên nhớ rằng : vết thương vừa có mặt, không những trong người bị áp đặt một ý định. Vết thương lòng cũng có mặt trong người áp đặt ý định cho người khác, một cách hồ đồ. Sở dĩ họ làm như vậy, là vì họ đang bị Vô Thức khống chế. Họ đang lo sợ. Họ đang khổ đau. Họ cảm thấy mình không được yêu thương và chú trọng, đúng như lòng mong đợi. Cho nên, khi chúng ta bị áp đặt từ ngoài một ý định không có căn cứ, thay vì chối từ, đính chính với một thái độ tự vệ hay là biện minh, chúng ta bắt đầu hướng đến niềm đau của người ấy :
« Bạn vừa nói rằng tôi có ý định phá hoại dự án mà bạn đã tốn rất nhiều công phu, để suy nghĩ và xây dựng. Như vậy là bạn đang khổ đau rất nhiều, vì cảm thấy mình không những không được nâng đở, mà còn bị bạn bè cản trở. Bạn có thể chia sẻ thêm cho tôi hiểu : bạn đang khổ tâm đến độ nào. Sau đó, tôi xin trình bày cặn kẻ ý kiến và thái độ của tôi, đối với bạn... ».
Hẳn thực, khi một người đang đau khổ, vì bất cứ lý do gì, chất lượng làm người gọi mời chúng ta hãy tìm cách băng bó vết thương lòng còn lở lói của người ấy, trước khi phân trần hoặc giải thích thái độ và tác phong chân thực của mình.


Sào huyệt thứ bốn của Vô Thức : vấn đề ĐỒNG TRÁCH NHIỆM của mỗi người

Trên một chuyến tàu làm người, mọi người cùng có mặt với nhau. Họ mang nhiều tên tuổi khác nhau như : Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Nương hay là Vua Hùng Thứ Mười Tám, và bao nhiêu người khác...Nhưng tất cả đều liên đới với nhau. Như trên đây tôi đã trình bày cặn kẻ, mỗi người -bất kỳ họ là ai, lớn nhỏ, nam nữ, già trẻ...- đều đóng ba vai trò cùng một lúc :
- Thứ nhất là vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm truyền thừa cho người đến sau một gia tài phong phú.
- Thứ hai là vai trò làm người đồng hành và chia sẻ, họp nhau lại thành « một trăm con mắt » để thấy, « một trăm cánh tay » để làm.
- Thứ ba là vai trò làm một đứa con hạnh phúc, « nuôi lại Tổ Tiên và Cha Mẹ của mình ». Những điều mà quí vị đả bắt đầu, hôm nay tôi tiếp nối. Những điều mà quí vị đã thành đạt, hôm nay tôi mở rộng chân trời. Những điều mà quí vị đã thất bại, hôm nay tôi « rút kinh nghiệm », sáng tạo thêm những con đường cao cả và bao la, thay thế vào những con đường lầy lội.
Thay vì bước tới và đi lên cùng với nhau như vậy, chúng ta đã và đang lặp đi lặp lại những con đường mòn xung đột và tranh chấp giữa hai nhân vật « Sơn Tinh và Thủy Tinh ». Tại sao chỉ hai người ấy mới « có tiếng nói », trong vòng bốn nghìn năm văn hiến ? Tại sao duy hai người ấy mới có độc quyền « chỉ đạo » con tim và bộ óc của chín mươi tám anh chị em khác ?
Khi chúng ta tố cáo, kết tội, phê phán... chúng ta đưa tay chỉ phe bên kia và qui chiếu về phía họ mọi trách nhiệm. Còn chúng ta, chúng ta từ khước trách nhiệm. Chúng ta khoác cho mình vai trò « làm nạn nhân » hay là « ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài », và rình rập chĩa súng bắn lén sau lưng họ.
Khi chúng ta lưu tâm đến công việc lên án, kết tội...chúng ta chỉ biết NHÌN QUÁ KHỨ , nhìn LẦM LỖI. Và chúng ta quên rằng : cuộc sống làm bằng hiện tại và tương lai, Yêu Thương và Hiểu Biết, Thứ Tha và Bao Dung.
Trái lại, khi chúng ta biết cùng nhau ngồi lại, rút ra những bài học, chắt lọc những kinh nghiệm, lỗi lầm lúc bấy giờ sẽ trở thành một bàn đạp, một điểm tựa quí hóa, để chúng ta có khả năng dời núi, lấp sông, xây lại những chiếc cầu « đồng cảm ».
Thêm vào đó, mấy ai trong chúng ta đang sống trong ánh sáng của Ý Thức, để can đảm và sáng suốt chấp nhận rằng : Khi có một lỗi lầm xảy ra bất kỳ ở nơi đâu, do bất kỳ ai khởi xướng, chính tôi đã GÓP PHẦN mình trong đó, không nhiều thì ít. Sở dĩ như vậy, một đàng vì trong bao nhiêu năm, tôi đã THINH LẶNG ĐỒNG LÕA. Đàng khác, vì tôi đã la lối ỏm tỏi, chống đối rùm beng bằng mồm miệng. Đang khi đó, tôi không bao giờ tra tay vào một việc làm cụ thể và hữu hiệu.
Càng chống đối bằng ngôn từ thuần đơn, tôi chỉ quảng cáo và tạo thêm cơ hội thuận lợi, để cho lỗi lầm càng ngày càng lan tràn và phát triển, như vết dầu loang.
Nhằm chuyển hóa một vấn đề hay là một lỗi lầm, Phân Tâm Học đề nghị cho chúng ta những đường hướng hành động thiết thực sau đây :
- Thứ nhất, ý thức và gây ý thức về tiến trình phát sinh của vấn đề, khi vấn đề đang còn ở trong giai đoạn trứng nước. Trái lại, kêu gào giải quyết vấn đề, tổ chức những cuộc đấu tranh bằng mồm miệng, khi vấn đề đã lên tới giai đoạn cực thịnh, chúng ta chỉ làm công việc chữa bệnh dịch hạch, bằng cách « thoa dầu cù là » ngoài lớp da mà thôi.
- Thứ hai, ở bên dưới mổi vấn đề to hay nhỏ, luôn luôn có một niềm đau, một vết thuơng lòng rướm máu, một nỗi lo sợ sâu xa chưa được ai băng bó. Nếu chúng ta muốn đi nhanh, dùng bạo động, chiến tranh, hận thù để giải quyết, có lẽ chúng ta dập tắt được một ngọn lửa. Nhưng đám cháy sẽ lan tràn, tiêu hủy cả một rừng già, một giang sơn gấm vóc.
- Thứ ba, trong cuộc sống làm người, để giải quyết bất kỳ một vấn đề gì, chúng ta không thể không ngồi lại với chính những người trong cuộc, thậm chí đó là một trẻ em. Ngồi lại, lắng nghe, tôn trọng quyền phát biểu của người ấy. Quyền ấy cũng là quyền làm người.
- Sau hết, truớc khi đi vào nội dung cụ thể của vấn đề tranh chấp, xung đột, hãy nhìn nhận và đón nhận vô điều kiện những xúc động của người đối diện, như lo sợ, tức giận, cảm nghiệm bị đàn áp, bốc lột...Đó là những vết thương lòng rướm máu đang khống chế và làm băng hoại chất lượng làm người của họ. Hãy mang lại cho họ chất lượng làm người, tràn đầy và thấm nhuần trong tấm lòng của chúng ta, họ sẽ dần dần trở nên người anh chị em thực sự và thân thương.
Bốn cách làm ấy đã có mặt trong tác phong « làm Bản Ngã trợ tá » của một bà mẹ, xuyên qua mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi với đứa con, vừa đi ra khỏi cung lòng ấm cúng của mình. Cuống rốn nối kết hai mẹ con đã được cắt lìa. Nhưng một cuống rốn vô hình khác làm bằng Tình Thương, Hiểu Biết và Tinh Thần Trách Nhiệm đang được sáng tạo và thành hình mỗi ngày. Nhờ vào đó, đứa con có gan mạo hiểm đi vào lòng cuộc đời, để trở thành người.


Sào huyệt thứ năm của VÔ THỨC : Đời sống Xúc Động

Gần như trong tất cả mọi cuốn sách được tôi viết ra từ trước cho tới nay, luôn luôn tôi đã dành ra ít nhất một chương, để trình bày những khám phá và nghiên cứu của tôi, về đời sống xúc động. Vừa hoàn tất một tác phẩm, tôi đã nhận thấy ngay lập tức nhiều trọng điểm chưa được « tát cạn ». Bao nhiêu tin tức còn nóng hổi, vừa xuất hiện trên các diễn đàn văn hóa...Hẳn thực, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Phân Tâm Học đã ấn mạnh vai trò của xúc động trong toàn diện cuộc sống của con người. Tuy nhiên, trong vòng 20 năm gần đây, bao nhiêu phương pháp tiếp cận, thuộc nhiều lảnh vực khác nhau, đã ra đời, như khoa học về não bộ, phương pháp « Tạo Trung Gian » trong khoa học xã hội, Thuyết Cấu Trúc trong địa hạt Triết lý...đã cung ứng nhiều nguồn ánh sáng rất thiết thực và độc đáo. Cho nên, tôi không thể không mang đến cho giới trẻ, nhất là ở Quê Nhà, một vài tin tức về hướng đi của Nhân Loại, trong thời đại Nghìn Năm Thứ ba.
Hôm nay, khi nói đến những xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, làm sao tôi không nhấn mạnh lại, và nhắc nhở cho đàn em của tôi, rằng : Xúc động là sào huyệt lớn lao nhất của VÔ THỨC. Nhu cầu của con người nằm ở đó. Nhưng đồng thời, động cơ thúc đẩy chúng ta đứng dậy, bước tới, tìm đến với những giá trị lớn lao và cơ bản, trong cuộc sống làm người, cũng bắt nguồn từ đó. Nếu Sơn Tinh và Thủy Tinh biết ngồi lại với nhau từ buổi đầu, chia sẻ cho nhau về những xúc động của mình, nhìn nhận và đón nhận nhau, họ đã mở ra cho các thế hệ về sau, những chân trời, những kinh nghiệm, những bài học làm người quí hóa.

Bài học thứ nhất cần được chúng ta ghi nhận là vấn đề ý thức và diễn tả những xúc động vừa đang hiện hình trong nội tâm.
Nếu không được mang ra ánh sáng của ý thức, chúng nó sẽ tìm cách NGỤY TRANG, để trốn thoát ra ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Chiếc áo ngụy trang thứ nhất là Tư Tưởng Nhị Nguyên trong những lời tố cáo, phê phán, qui lỗi : Tao hơn mày thua.
- Chiếc áo ngụy trang thứ hai là xu thế ước đoán hay là khoác cho kẻ khác những ý định tiêu cực như phá hoại, gian lận, phản bội... : Mày cố ý khinh thường tao.
- Chiếc áo ngụy trang thứ ba là tập quán chụp mũ, gắn nhãn hiệu, bằng những danh hiệu rất mơ hồ và tổng quát : Mày là đồ cù lần.
- Chiếc áo ngụy trang thứ bốn là bộ mặt mô phạm, dạy đời : đưa ra những lời khuyên, đề nghị cho kẻ khác những cách giải quyết, theo ý chủ quan của mình, hay là trấn an một cách thông lệ : Thôi, can đảm lên chứ. Con trai mà khóc, người ta sẽ cười chết.

Bài học thứ hai cần ghi nhận là phương thức đối ứng với những xúc động nơi người khác.
Khi nhận thấy có người đang bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, những xúc động của mình, điều chúng ta cần làm trước tiên là nhìn nhận và đón nhận, có nghĩa là coi trọng những cảm nghiệm của họ. Coi trọng như vậy không có nghĩa là đồng ý với cách phản ứng của họ. Nhìn nhận như vậy là « gọi tên » xúc động đang thành hình, xuất hiện hay là còn ẩn lén trong nội tâm của người đang tiếp xúc với chúng ta :
« Qua lời bạn vừa nói ra... qua hành vi của bạn mà tôi ghi nhận... hình như bạn đang bực tức và lo buồn... ».
Chúng ta có thể nêu lên hai hay ba tên gọi khác nhau. Thông thường, những xúc động không bao giờ xuất hiện một mình. Hai hay ba phản ứng có thể dính liền và cùng đi với nhau. Theo tác giả G. JAMPOLSKY (7), lo sợ luôn luôn có mặt, mỗi lần chúng ta tố cáo, chụp mũ hay là có tác phong mất bình tĩnh, khi bộc lộ một xúc động đang trấn áp nội tâm. Và trước nỗi niềm lo sợ của một người, chỉ có tình yêu thương là câu trả lời thích hợp và đứng đắn. Thái độ « Nhìn nhận » phát xuất từ lòng yêu thương chân thành ấy.
Nói tóm lại, nhìn nhận xúc động của một người, là khẳng định với người ấy, một cách rõ ràng và chân thực, ba thái độ làm người của chúng ta :
- Thứ nhất, tôi đang lắng nghe bạn, với trọn con người của tôi,
- Thứ hai, tôi muốn tìm hiểu bạn, đúng như bạn hiểu chính mình,
- Thứ ba, tôi tôn trọng và ghi nhận xúc động đang hiện hình trong bạn.
Khi người khác không được chúng ta nhìn nhận, một cách nghiêm minh và cẩn trọng như vậy, những quan hệ giữa họ và chúng ta sẽ từ từ suy vong và tàn lụi. Trong những trường hợp trầm trọng hơn nữa, bao nhiêu nguyên nhân gây ra xung đột, hận thù, chia rẽ đều len lỏi, nằm vùng ở đó.

Bài học thứ ba cần ghi nhận : Thương lượng, để diễn tả và chuyển hóa Xúc Động
Mỗi lần nói đến « chuyển hóa Xúc động », chúng ta nói đến hai động tác cần thực hiện : Một là ý thức về những hiện tượng khá phức tạp đang xuất phát trong nội tâm. Hai là làm chủ bản thân và đời sống của mình. Có người sử dụng lối nói : quản lý, chuyển dịch từ tiếng Anh « To manage, Managing, Management ». Phần tôi, tôi sở hữu hóa lối nói của Kinh Dịch « chuyển hóa hay là hóa giải », nghĩa là thay vào, khoác vào một bộ mặt, một hình thức thích ứng hơn, hữu hiệu hơn, có chất lượng làm người hơn. Tôi xin đan cử một ví dụ : Tức giận là quyền làm người của mỗi người cần được tôn trọng và cho phép. Nhưng bộc lộ tức giận bằng những tác phong bạo động, la mắng, nạt nộ, trừng phạt, đánh đập... không thuộc về chất lượng làm người. Trong quan hệ giữa người với người, chúng ta cần sáng tạo những hình thức thích hợp hơn.
Theo ý kiến của Tác giả Douglas STONE, để có thể chuyển hóa một xúc động, chúng ta bắt đầu bằng động tác THƯƠNG LƯỢNG (8).
Hẳn thực, giữa Tư Duy và Xúc Động, có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Xúc động bắt nguồn từ một lối nhìn, một cách thuyên giải. Nhưng khi xúc động đã có mặt trong nội tâm, nhất là những xúc động quá mãnh liệt và tràn ngập, xúc động lúc bấy giờ sẽ trở lại khống chế tư duy. Trong tình huống nầy, tư duy trở thành con múa rối, bị xúc động lèo lái, chỉ huy, trấn áp. Nói khác đi, tư duy không còn hoạt động dưới ánh sáng của Ý Thức. Tư duy bị khống chế, tê liệt, trong chế độ Vô Thức bắt nguồn từ xúc động không được nhìn nhận và đón nhận.
Thương lượng là trở lại với ba nấc thang của Tư Duy, mà tôi đã trình bày truớc đây :
- Nấc thang thứ nhất : tôi đang thấy gì, tôi đang nghe gì, một cách cụ thể và khách quan. Sự kiện được ghi nhận là gì ?
- Nấc thang thứ hai : tôi thuyên giải thế nào. Phía bên kia, sau khi nghe tôi, người đối diện sẽ thuyên giải theo chiều hướng nào ? Khi có những khác biệt giữa hai lối nhìn, tôi sẽ đề xuất những quyết định bổ túc thế nào, cho hợp tình hợp lý ?
- Sau khi thương lương như vậy, nghĩa là lắng nghe mình và lắng nghe người khác, dưới ánh sáng chan hòa của ý thức, công việc còn lại là diễn tả chất lượng làm người, diễn tả một tấm lòng ĐỒNG CẢM của mình.
Sau khi lắng nghe, trao đổi, tìm hiểu...cả người đối diện cùng với tôi đi đến kết luận nào ? Hay là tôi vẫn tiếp tục tố cáo ? Vẫn khư khư tin tưởng như đinh đóng là người kia cố tình chèn ép tôi ? Đối với tôi, lỗi vẫn hoàn toàn thuộc về phe bên kia ?
Sơ đồ diễn tả đã được tôi giới thiệu và trình bày trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành » (9) :
- Bước thứ nhất : Khi tôi thấy... tôi nghe...
- Bước thứ hai : Tôi cảm...
- Bước thứ ba : Xuyên qua xúc động ấy, tôi cần ...
- Bước thứ bốn : Vậy bây giờ, tôi xin bạn hãy ...
Và sau khi diễn tả lòng mình, chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của kẻ khác. Khi đón nhận niềm đau của anh chị em đồng bào, chúng ta sẽ giật mình tĩnh thức, vì thấy rằng : niềm đau của chúng ta chỉ là hạt nước, trong một đại dương bao la.


Bài Chia Sẻ số Ba : VÔ THỨC là một thách đố lớn lao

Đáng lý khi nói đến những sào huyệt của Vô Thức, tôi còn phải ghi nhận thêm hai loại khác, cũng quan trọng và lớn lao như năm loại kia. Đó là Bản sắc làm người và Quan hệ tiếp xúc.Tuy nhiên, xuyên qua chương nầy, vấn đề về Bản sắc làm người sẽ được đề cập, trong những đường nét chính yếu. Và một bài chia sẻ sau này sẽ khảo sát vấn đề « quan hệ giữa người với người ».
Khi bàn đến Bản sắc làm người, phần nhiều các tác giả đề nghị nêu lên câu hỏi cơ bản: Tôi là ai, trong lòng cuộc đời ?
Robert DILTS (10) hướng dẫn cách trả lời của chúng ta, bằng những câu hỏi khác ăn khớp vào nhau và soi sáng lẫn nhau.
- Câu hỏi thứ nhất : Cùng đích mà tôi nhắm tới, trong cuộc đời là gì ? (What for ?)
- Câu hỏi thứ hai : Cùng đích ấy bao gồm những giá trị nào ? (Why ?)
- Câu hỏi thứ ba : Những giá trị bao la, diệu vợi ấy trở nên hiện thực, trong lòng cuộc sống làm người, bằng cách làm nào ? Chương trình hành động ấy nhắm tới những mục tiêu cụ thể nào ? (HOW ?)
- Câu hỏi thứ bốn : Trong chương trình ấy, động tác cụ thể, mà tôi thực hiện, ngày hôm nay, là điều nào ? (What next ?)
- Câu hỏi thứ năm : Tôi làm điều ấy ở đâu, với ai, trong môi trường nào ? (Where, with whom... ?)
Với phương pháp « kiến tha lâu đầy tổ » hay là « cháo nóng húp quanh », do Tổ Tiên chúng ta đề xướng, tôi biết rằng : tôi chỉ làm một động tác rất nhỏ mọn, thuộc tầm tay non yếu của tôi, ngày hôm nay. Còn đám mây đen to tướng kia, đang bao phủ bầu trời của Bà Âu Cơ, sẽ từ từ tan biến đi, khi bình minh trở lại ngày mai. Đằng sau khúc sông eo hẹp, mà tôi đang cố tìm đường lách ra, giữa bao nhiêu lau sậy, Biển Cả của Lạc Long Quân đang chờ đợi tôi.
Hẳn thực, như Phần Hai vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ, Vô Thức bủa vây chằng chịt, trên mỗi đường đi và lối thoát của chúng ta. Và chỗ nào có Vô Thức, chỗ ấy khổ đau cũng có mặt tràn trề, man mác. Chỗ nào có Vô Thức, chỗ ấy xung đột, chiến tranh, hận thù là hiểm họa có thể bùng nổ, trong từng giây, từng phút. Và tôi còn muốn thêm, một cách cương quyết rằng : Chỗ nào có con người chung sống với nhau, chỗ ấy thế nào cũng có những thế hệ Sơn Tinh và Thủy Tinh. Không những ở Việt Nam. Nhưng trên mỗi xứ sở của Hoàn Cầu.
Tuy nhiên , tôi không dừng lại, bế tắc và bất động, trước nhận xét hoàn toàn khách quan và hiện thực ấy. Tôi không bi quan, yếm thế. Trước mỗi vấn đề, mà tôi phân tích, tôi luôn luôn trình bày ít nhất một hoặc hai cánh cửa mở rộng. Trước mỗi bóng đen của Vô Thức bao trùm, khống chế, trấn ngự... luôn luôn có một tia sáng Ý Thức kêu mời, khuyến khích. Ai lắng mà không nghe ? Ai nhìn mà không thấy ? Ai tìm học, mà không có một vị thầy hay cô giáo đợi họ đến gõ cửa. Vấn đề chính yếu là chúng ta có can đảm đứng dậy, đi ra vùng ánh sáng hay không ?
Qua bao nhiêu nhận xét, mà tôi đã trình bày và giới thiệu, trong suốt bài chia sẻ này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều :

Cuộc sống là một thách đố.
Vô thức là một thách đố.
Khổ đau là một thách đố.
Trong mỗi thách đố, cơ may để tiến lên làm người luôn luôn có mặt, một cách tràn trề và lai láng.


Nhưng vực thẳm cũng ở sát bên cạnh, tạo nguy cơ, để chúng ta có thể ngụp lặn và đắm chìm. Cuộc sống luôn luôn là một chọn lựa. Và chọn lựa khó khăn nhất là thay đổi lối nhìn về mình, trong chính nội tâm của chúng ta.
Cơ may lớn lao và chắc chắn nhất là người anh chị em đồng bào cùng đi, cùng bước với chúng ta. Khi họ rơi, chúng ta nâng đỡ. Khi chúng ta ngã, họ đưa tay kéo chúng ta lên. Khi đèn nhà tôi tắt, tôi qua thắp lại, bên ngôi nhà láng giềng. Khi mặt tôi lọ lem, họ nói cho tôi hay biết: tôi đang lọ lem.
Nguy cơ, trái lại, xảy ra, khi tôi khước từ người anh chị em. Họ đưa tay, tôi không nắm bắt. Họ kêu cứu, tôi không trả lời. Họ muốn sống, tôi mang tới bom đạn và gươm giáo. Sống cô đơn, cô độc, tôi mất khả năng thông hiểu và sử dụng ngôn ngữ họ thường dùng.
Nỗi buồn lớn lao của tôi, mỗi lần nghe lại câu chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, không phải là mối tình tranh chấp của cả hai người đối với Mỵ Nương. Trên Đất Nước Lạc Việt, có hằng trăm, hằng ngàn, hằng triệu Mỵ Nương, còn duyên dáng, mặn mà hơn Nàng Công Chúa Mỵ Nương của Vua Hùng Thứ Mười Tám. Nhưng tôi buồn thấm thía, vì hai người đã một lần sát cạnh nhau, trong bào thai của mẹ. Nhưng bây giờ họ không có khả năng nói chuyện với nhau, bằng tiếng Mẹ Đẻ. Họ đã quên hẳn tiếng nói làm người. Họ trở thành người xa lạ, người Nước Ngoài. Không có Quê Hương, để nhớ đường trở về. Không có Quê Hương, để thương khóc, khi ra đi. Họ không còn có khả năng cùng nhau kết dệt một giấc mơ trọng đại, trong đó có Trời, có Biển, có Núi, có Sông. Có những cánh đồng cò bay thẳng cánh. Có những em bé ca hát líu lo, dẫn trâu về ràn. Có những cô thiếu nữ hò giả gạo, dưới ánh trăng đêm. Có những bà mẹ đang dắt tay con đi vào những hang động Huyền sử của Nước Non.
Buồn làm sao, vì cả Sơn Tinh và Thủy Tinh đã quên rằng họ là những người « luyện vàng », nghĩa là có khả năng hiến tặng một tấm lòng, mặc dù người Anh hay người Em của mình, trong một phút giây khổ đau, vô thức, mê muội... đã mở lời tố cáo, phê phán, nghi kỵ, hằn học, ganh đua, tranh giành phần hơn.
Trong mọi tình huống như vậy, phải chi hai người anh em ấy biết dừng lại « tri chỉ »…tìm cách học hỏi và tâm sự với nhau :

Em là Nước ? Anh xin làm Biển Cả,
Cùng theo Em đến những miền xa lạ,
Gieo vãi Tình Thương, Khung Trời mở rộng,
Hiến cho đời mầm non, trào nhựa sống.
Anh là Hoa ? Em xin làm Mảnh Đất,
Ấp ủ vun trồng, dịu dàng thân mật,
Dưới mỗi bước chân, hương trầm ngào ngạt,
Trên khắp Non Sông, nương đồng bát ngát.

Em là Trời ? Anh xin làm Không Khí,
Đón nhận Em trong Trái Tim bình dị,
Em an bình, tâm hồn Anh diệu vợi,
Em hạnh phúc, cuộc đời Anh phơi phới.

Anh là Mây ? Em nguyện làm Gió Mát,
Thổi ân tình vào lòng ai ngột ngạt,
Gieo thái hòa giữa vùng đất bạo động,
Nuôi chí khí, đánh thức người tuyệt võng.

Em là Núi ? Anh nguyện làm Rừng Xanh,
Động viên Em với tất cả lòng thành,
Hãy đứng thẳng, nhìn Mặt Trời tỏa rạng,
Tay vươn cao tiếp thu nguồn Ánh Sáng.

Anh là Đất ? Em hóa thân thành Nắng,
Sưởi ấm Anh bằng tấm lòng thầm lặng,
Suốt mùa đông, chết đi nuôi Anh sống,
Qua tiết xuân, gọi mời Anh hy vọng.

Nói và làm được như vậy là luyện mình thành vàng.
Hẳn thực, theo lối nhìn của văn hào Paulo CUELHO, LUYỆN VÀNG là giấc mơ kỳ vĩ, trong cuộc sống làm người. Khi « va chạm » vào chúng ta, người khác làm bằng với bất kỳ chất liệu gì như đồng, chì, sắt, thép… sẽ từ từ hóa thân thành vàng nguyên chất.
Tuy nhiên, để có khả năng luyện vàng như vậy, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết lừng danh của tác giả nầy, mang tên là « Người Luyện Vàng » (11), đã phải từ bỏ tất cả, trong cuộc đời hiện tại của mình, băng ngàn, leo núi, vượt trùng dương, đi vào Sa Mạc. Tại nơi đây, ông đã học lắng nghe tiếng gió, khám phá những dấu chân trên mặt cát muôn hình vạn trạng, thương lượng với những người sinh sống bằng chiến tranh. Thế nhưng, cũng nhờ sa mạc, ông đã biết yêu, đã gặp thầy, đã đào đất tìm được « Hòn Đá Khôn Ngoan », bên cạnh một Kim Tự Tháp. Với báu vật cuối cùng nầy, ông đã biết cách luyện vàng, để có tiền trở về quê hương của mình.
Tại một căn lều bỏ hoang, mà trước đây ông đã từng chiếm cứ và qua đêm với đàn cừu của mình, ông đã gặp lại giấc mơ ngày xưa của mình. Giấc mơ ấy, tại nơi đây, đã bảo ông ra đi học làm người luyện vàng. Hôm nay, sau hơn hai mươi năm, cũng giấc mơ ấy, tại nơi đây, bảo ông hãy đào bới những tầng sâu thăm thẳm, ở chỗ ông đã từng nằm trước đây và bây giờ đang nằm. Kỳ thực, một kho vàng lớn lao đang ở trong đôi tay của ông. Ông không ngờ, ông đã kinh qua hai mươi năm, học làm người luyện vàng. Bây giờ, tại căn lều mà ông đã sinh sống suốt cuộc đời thơ ấu, hai bàn tay ông đã đào bới được vàng.
Sau câu chuyện nầy, văn hào Paulo Cuelho đã kết luận : khi chúng ta cưu mang, ấp ủ và ngày ngày vỗ về một giấc mơ, tất cả trăng sao, gió mưa, đất trời và toàn thể vũ trụ...đều đóng góp phần năng động và giúp chúng ta thực hiện hoài bảo của mình.

Trở lại với tất cả những điều chúng ta đã khám phá, về những tầng sâu của nội tâm, chúng ta cũng có thể kết luận gống y hệt Paulo Cuelho : Nếu chúng ta cưu mang chất lượng làm nguời, trong đáy sâu thăm thẳm của tâm hồn, chính Vô Thức và bao nhiêu khổ đau, trong lòng cuộc đời, đều là chất liệu quí hóa giúp chúng ta thành người và có khả năng chuyển biến kẻ khác thành người cùng với chúng ta.

Tháng 8 năm 2008
CH-1694 ORSONNENS/Fr, Suisse
NGUYỄN Văn Thành


Bí chú :

1.- SPITZ R. - The first year of life -I.U.P N.York 1965
2.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Quan hệ Mẹ Con - Tình Người, Lausanne 2000.
3.- BRAZELTON T.B. - Points forts II - Stock, Paris 2000
4.- WINNICOTT D.W.- The family and Invidual development- Basic Books, New York 1965.
5.- ROBBINS R.- Unlimited Power : a black choice -Simon and Schuster, N.Y. 1997 p.251.
6.- 100 bài thơ tình - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993, tr. 9.
7.- JAMPOLSKY G. - Aimer c'est se libérer de la peur - Ed. Soleil, Genève 1980
8.- STONE D. - Difficult Conversations -M-Joseph, London 1999.
9.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tình Người, Lausanne 2003.
10.- DILTS R. - Applications of NLP - Metapubl. CA 1983.
11.- CUELHO P. - L-Alchimiste - éd. ill. par Moebius 1995



Tác giả: Nguyễn Văn Thành


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét