Thứ Ba, 31 tháng 3, 2009

Để Xây Dựng Những Quan Hệ Hài Hoà... Giữa Người Với Người ( Trên con đường dựng nước và giữ nước)

Trong những bài chia sẻ được giới thiệu trước đây, trên diễn đàn nầy, tôi đã quảng diễn và nhấn mạnh những trọng điểm như sau :
Thứ Nhất, ngôn ngữ là con dao hai lưỡi. Khi được sử dụng một cách máy móc, tự động, trong cuộc sống hằng ngày, phương tiện nầy có thể mang đến nhiều ngộ nhận, trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi, giữa người với người. Nó dẫn khởi nhiều xung đột, thậm chí giữa hai vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái...
Tuy nhiên, cũng nhờ vào ngôn ngữ, chúng ta phát hiện được những sào huyệt mê cung của Vô Thức. Từ đó, chúng ta có thể từ từ chuyển hóa Vô Thức thành Ý Thức, trên con đương xây dựng và phát huy Bản Ngả cũng như những quan hệ cần thiết giữa người với người.
Thứ Hai, nhờ con đường ngôn ngữ, chúng ta mang ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những xúc động tiêu cực, tê liệt, tràn ngập và ngụy trang, thậm chí đã lâu ngày bị dồn nén, ức chế, chối từ hoặc che giấu. Khi được diễn tả một cách rõ ràng, trung thực như vậy, khổ đau, cho dù khốc liệt, oái oăm và nhức nhối, không thể biến thân thành những phương tiện bạo động bùng nổ ra bên ngoài, hay là xói mòn, tiêu hủy lòng tự tin của chúng ta, ở bên trong nội tâm.
Thứ Ba, ngôn ngữ cũng là con đường diệu vợi cho phép chúng ta bộc lộ với anh chị em đồng bào, tấm lòng đồng cảm, thái độ nhìn nhận và chất lượng làm người của chúng ta, một cách đơn phương và vô điều kiện. Không đòi hỏi, chờ đợi « một cử chỉ có thiện chí », từ phía người đối diện, rồi khi đó chúng ta mới chấp nhận làm người có hiểu biết và tình thương.
***
*
Bài chia sẻ nầy sẽ quảng diễn thêm một cách rộng rãi hơn, điểm thứ ba trên đây, bằng cách đề nghị những bước đi lên cụ thể, khi xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người với người.
- Trong Bước số Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi nhau, hai lãnh vực « Người và Việc ».
Hẳn thực, trong đời sống làm người, bao lâu chúng ta chưa chấp nhận và tôn trọng quyền khác biệt của người khác đang có mặt với chúng ta, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ chung sống hài hòa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến trình lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc.
Trái lại, trong lãnh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những vùng hội tụ hay là trung gian, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ý « cùng với nhau nhìn về một hướng », không chia sẽ một số giá trị chung, chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn cho nhau và với nhau.
Trong Bước số Hai, tôi sẽ nhấn mạnh thêm : Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích cực, cụ thể và khách quan với nhau, cho nhau và nhờ nhau. Không có kẻ thua. Trái lại, trong mỗi quan hệ hài hòa và đồng cảm, cùng đích cần nhắm tới là vấn đề thành người.
Lẽ đương nhiên, khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên - người và chúng ta - sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta không chờ đợi, đòi hỏi phải có kết quả cụ thể, trong địa hạt thương lượng, rồi mới dấn bước trên con đường làm người. Một bên là tiến trình. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm người. về phía tôi. Tôi thực hiện những điều cần thực hiện.
Sau cùng, trong Bước số Ba, tôi sẽ trình bày : đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân thực hiện một cách khoa học. Pải chăng từ ngày hôm nay, không trì hoãn, chúng ta có trách nhiệm xây dựng những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đình, thậm chí với đứa con vừa đi ra khỏi lòng mẹ, chưa hoàn toàn ý thức về mình. Trách nhiệm ấy thuộc bản sắc làm người của chúng ta.

***

Bài Chia Sẻ Một - Phân biệt giá trị của Người

Và kết quả cụ thể Việc

Khi nói đến Người, chúng ta nói đến những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người với nhau, trong tất cả mọi hoàn cảnh chung sống, thuộc đời sống gia đình, cũng như thuộc địa hạt xã hội. Ngay từ giây phút đầu tiên, lúc đứa bé vừa ra chào đời, em đã cần kết dệt những quan hệ với người mẹ, hay là với một người nuôi nấng, đùm bọc em giống như một người mẹ. Nhờ đó, em mới có khả năng sống và thành người. Chính người mẹ cũng cần phải thiết lập những quan hệ với đứa con và bao nhiêu người khác, mới có thể chu toàn vai trò làm người và làm mẹ một cách tốt đẹp.
Hẳn thực, suốt cuộc sống làm người, từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời, những mạng lưới quan hệ chằng chịt sẽ dạy cho tôi ba bài học chủ yếu :
Bài học thứ nhất : Giữa người khác và tôi có những nét khác biệt « đương nhiên và ắt có ».
Quyền khác biệt ấy thuộc bản sắc làm người và cần phải được tôn trọng. Bằng không, chất lượng làm người của cả hai người - người không biết tôn trọng và người không được tôn trọng - đều bị tổn thương trầm trọng. Ngoài ra, nhờ khác biệt, người ấy và tôi có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau, trên suốt tiến trình làm người. Người khác nói được là một tấm gương soi, trong đó tôi nhận ra khuôn mặt xinh đẹp của tôi, cũng như bao nhiêu đường nhăn và vết thẹo...Trong một vài tôn giáo và nền văn hóa, xưa và nay, người khác được coi như là một « Hồng Ân ». Ít nhất về mặt lý thuyết, họ là « vị đại diện hữu hình của Thượng Đế Vô Hình », đang có mặt với tôi, trên những chặng đường xuôi ngược của cuộc đời.
Tuy nhiên, cũng vì những nét khác biệt ấy, bao nhiêu tranh chấp, xung đột, thiên kiến, hận thù... cũng có thể bùng nổ, giữa người ấy và tôi. Chính Triết gia người Pháp J.P.SARTRE đã khẳng định : « người khác là hỏa ngục ».
***
Bài học thứ hai : Giữa người khác và tôi, cũng có rất nhiều điểm GIỐNG NHAU, cho dù người nầy sinh ra ở Nam và kẻ kia xuất phát từ miền Bắc.
Nhờ vào những đồng điểm ấy, hai người có thể « xích lại gần nhau » và yêu nhau. Dưới một khía cạnh nào đó, họ nhận thấy mình là « một phần nửa » của nhau, đã cùng nhau « chia sẻ một bào thai », trong cung lòng của một mẹ và một cha. Giống như những cặp vợ chồng trẻ trung ở miền Bình Trị Thiên, họ không ngần ngại gọi nhau là Mình. « Mình với Ta, tuy hai mà một. Ta với Mình, sao một mà hai ? »
***
Bài học thứ ba : Người khác và tôi CẦN nhau, trong rất nhiều công việc hoặc dự án, tốt cũng như xấu, xây dựng, tích cực cũng như tiêu cực và phá hoại.
Hẳn thực, theo lối nhìn của nhà tâm lý xã hội CRÈVECOEUR J.J. (1), khi tôi từ chối một cách rộn ràng bằng mồm miệng, cũng như khi tôi thinh lặng đồng lõa, tôi đều góp phần tích cực của mình, để nuôi dưỡng những trò chơi quyền lực, trong những xã hội rộng và hẹp, thuộc tầm cỡ hoàn vũ, hay là trong giới hạn chính trị của một khu vực. Theo lối nói ngày nay, chúng ta tất cả đều « liên đới với nhau », đều « đồng trách nhiệm ». Ai ai cũng đóng góp phần mình, khi có một « con sâu đang đục khoét », trong lòng xã hội. Hẳn thực, tôi không hối lộ. Nhưng tôi đã làm gì trong những giới hạn của tôi ? Tôi vẫn mua vé chợ đen, khi lên tàu, để có chỗ ngồi đàng hoàng, thoải mái. Tại các cơ sở y tế, tôi nhờ cậy người quen thân, để được ưu tiên « không sắp hàng » chờ đợi, như bao nhiêu người khác...Chính vì những lý do đó, thay vì phê phán, tố cáo kẻ khác có tác phong « tùy tiện », có lẽ tôi hãy bắt đầu nhìn mình : tôi đang « tùy tiện » ở đâu, trong những chu vi hoạt động của tôi ? Ngược lại, tôi cũng có khả năng « làm con én nho nhỏ tạo nên mùa xuân », trong những tầng sâu thăm thẳm của nội tâm tôi. Từ điểm xuất phát đó, con én ấy sẽ dần dần làm « vết dầu loang », cho người khác. Nếu chất lượng thực sự của chúng ta là hương, tự khắc mùi thơm sẽ lan tỏa ra chung quanh. Để làm người, ai ai cũng cần CHO. Và đồng thời, chúng ta cũng đang NHẬN lại rất nhiều, từ bốn phương thiên hạ. Xin và cho thuộc bản chất làm người. Tuy nhiên, CHO không phải là từ trên ban phát một cách trịch thượng. XIN không phải là chối từ quyền lợi và giá trị tự tại của mình. Khi cho, chúng ta nhận mình là người truyền thừa một gia tài vô tận, trong chính con tim và cuộc đời làm người. Khi xin, chúng ta ý thức mình luôn luôn « làm đứa con » trong lòng Trời Đất, không đòi hỏi, không đặt điều kiện. Xin là nhìn nhận mình đang được thương yêu. Trong cuộc sống, dưới chế độ Vô Thức, trái lại, quan hệ xin-cho có nguy cơ đánh mất bản chất cao quí và trọng đại, bằng cách bị xuyên tạc và thoái hóa, thành đồ hàng hóa mua chác, chiếm hữu, kiểm soát, đút lót...
Nữ Thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhận thức được cả ba bình diện « Khác, Giống và Cần », trong mỗi quan hệ làm người, nhất là trong địa hạt tình yêu giữa Biển và Thuyền (2) :
« Từ ngày nào chẳng biết,
« Thuyền nghe lời Biển khơi.
« Cánh hải âu sóng biếc
« Đưa Thuyền đi muôn nơi.
« Lòng Thuyền nhiều khát vọng,
« Và tình Biển bao la.
« Thuyền đi hoài không mỏi,
« Biển vẫn xa... còn xa.
(...)
« Chỉ có Thuyền mới hiểu
« Biển mênh mông nhường nào.
« Chỉ có Biển mới biết
« Thuyền đi đâu, về đâu.
« Những ngày không gặp nhau,
« Lòng Thuyền đau rạn vỡ.
« Nếu từ giả Thuyền rồi,
« Biển chỉ còn sóng gió. »
Xuyên qua hai hình tượng Biển và Thuyền, phải chăng Xuân Quỳnh đã gọi mời chúng ta cảm nghiệm thế nào là quan hệ giữa người và người, trong những nét đẹp tinh tuyền, nguyên khởi của nó : NHẬN mà không cần xin nài, than vản. CHO mà không đòi hỏi lòng biết ơn.
Phải chăng đó là cốt tủy của tình mẹ con, trong những tháng ngày đầu đời của chúng ta ?
Phải chăng người mẹ, như tôi đã nói tới, khi trình bày Phương Pháp Phân Tâm Học của FREUD, đang làm Siêu Ngã cho đứa con của mình. Đang ở trên , để có một lối nhìn bao quát và toàn diện, không quên sót điều gì. Đang ở trên , để có thể dễ dàng bảo đảm sự có mặt tích cực của mình, về tất cả những gì mà đứa con đang cần. Đang ở trên , như con gà mẹ ấp ủ bầy con, dưới đôi cánh , một đàng để tạo lại hơi ấm của bào thai. Đàng khác, để đứa con cảm thấy mình an toàn, trước mọi hiểm họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Người mẹ ở trên, làm Siêu Ngã . Nhưng không độc tài, đàn áp. Không cưỡng chế, ép buộc.
Người mẹ ở trên. Nhưng « ở trên » để có thể đồng hành và chia sẻ, nhờ một lối nhìn bao quát và toàn diện.
Người mẹ ở trên , nhưng đồng thời cũng « ở trong » và « ở với », đặt mình vào vị trí của con, để hiểu con, như chính đứa con hiểu mình. Vui với con, Cười với con. Bi bô với con. Đưa bàn tay xoa bóp, vuốt ve nhẹ nhàng, để đứa con cảm thấy có mẹ đi theo mình, vào giấc ngủ.
Và khi đứa con thức dậy, mở mắt ra, sau một giấc ngủ ngon lành, hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mặt bé, là nụ cười hạnh phúc của mẹ. Hình ảnh khách quan nầy phát sinh, trong đứa con, một cảm nghiệm hạnh phúc và vui sướng : Mẹ có mặt, để đón nhận mình. Tôi là một nhân vật « quan trọng và có ý nghĩa », đối với mẹ.
Trái lại, khi đứa con khóc, một nhu cầu đang từ từ chớm nở trong nội tâm. Và đồng thời, nhờ nhu cầu ấy tác động, trẻ em sẽ mơ tưởng một đối tượng, có khả năng thỏa mãn ước mơ của mình. Chính khi đó, hình ảnh người mẹ xuất hiện bên ngoài, trùng hợp với hình ảnh mà đứa con đang ước mơ bên trong. Nhờ sự trùng hợp nầy, đứa bé có thể phát huy lòng tự tin, cảm thấy mình có khả năng « sáng tạo » bà mẹ theo khuôn khổ và tầm ước mong cụ thể của mình. Cốt lõi của Bản Ngã nằm ở trong ý thức về khả năng nầy. Và cốt lõi nầy sẽ từ từ lớn dần. Bản Ngã của đứa bé sẽ xuất hiện, nhờ bà mẹ biết làm Siêu Ngã, đúng lúc, đúng chất lượng và đúng liều lượng, đối với thực tế và nhu cầu của đứa con.
Quan hệ Mẹ Con, trong những đường hướng tích cực và xây dựng như vậy, là mẫu thức nguyên tượng, nguyên thủy cho mọi quan hệ giữa người với người. Làm người, trong tinh thần và lăng kính ấy, bao gồm ba chiều hướng :
Thứ nhất, tôi làm người « cha mẹ » cho người khác, để soi sáng và nâng đỡ họ.
Thứ hai, tôi làm người « đồng hành và chia sẻ », để biến cuộc đời vô vị, tầm thường, thành một tác phẩm đầy ý vị và lạ thường.
Thứ ba, tôi làm một « đứa con hạnh phúc », để phản ảnh hạnh phúc của cha mẹ, chính khi quí vị chọn lựa « nằm bên ướt, để nhường lại bên ráo », cho tôi nằm.
Với những lối nói riêng bịệt, tác giả Stephen R. COVEY (3), cũng đề xuất ba đường hướng tương tự, cho mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người :
- Điểm một : Khi tiếp xúc, chúng ta lắng nghe người khác, để tìm hiểu họ, thay vì đợi chờ người khác phải hiểu mình,
- Điểm hai : Khi tiếp xúc, mục tiêu cần thành đạt là « Người thắng, tôi thắng. Cả hai cùng thắng với nhau, nhờ nhau ».
- Điểm ba : Trong mọi quan hệ hài hòa, xây dựng và tích cực, người và tôi « tương sinh, tương thành, tương tức và tương tạo ». Cơ hồ, trong quan hệ mẹ con, mẹ sinh con ra, tạo mọi điều kiện cho con thành người. Nhưng đứa con cũng đang nuôi lại mẹ, với nụ cười, với tiếng nói líu lo, với thái độ « vùi đầu vào lòng mẹ », để thỏ thẻ : « Mẹ ơi, con thương Mẹ ». Nó đang cho lại bà mẹ, những gì bà đang cần, để ngày ngày bà có thể làm người. Trong tiếng Anh, Stephen R. COVEY đã sử dụng một từ thời trang « Synergizing ». Syn có nghĩa là cho nhau, với nhau. Ergizing, hình thức rút gọn của Energizing, có nghĩa là tạo ra năng động, nhiệt lực, hứng khởi, sức mạnh. Trong tinh thần và lăng kính nầy, Synergizing có nghĩa là « Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao ». Synergizing là cùng nhau tạo nên một nguồn năng lực lớn lao, phát xuất từ hai thành tố đầu tiên, nhưng bây giờ đang nhân ra thành ngàn lần, triệu lần to lớn hơn nguồn gốc ban đầu. Từ Ergizing còn có một xuất xứ khác trong tiếng Hy Lạp là Erg, có nghĩa là hành động, tác động. Cho nên hiện tượng cộng hưởng sẽ xảy ra - synergizing - khi hai người tác động qua lại hai chiều trên nhau. Nói khác đi, khi hai người hợp tác với nhau, họ có khả năng « đồng hành và chia sẻ ». Khi họ hoạt động, họ có với nhau « một trăm cánh tay ». Khi họ cứu xét một vấn đề, họ có cùng nhau « một trăm bộ óc, một trăm cặp mắt ». Khi họ lắng nghe, họ có với nhau « một trăm đôi tai ».
***
Khi nói đến « NGƯỜI », xuyên qua tất cả những nhận xét trên đây, chúng ta đã nói đến « một TIẾN TRÌNH làm người ». Trên con đường ấy, không ai làm ông chủ. Không ai là người đã « tới nơi » hay là đã thực sự « đạt cùng đích ». Và cũng không ai làm đầy tớ. Không ai có quyền lèo lái, điều khiển, áp đặt và chỉ đạo người khác từ trên, từ ngoài. Không ai có quyền coi kẻ khác là công cụ, đồ vật. Ai ai cũng được kêu mời làm người và coi trọng quyền làm người của kẻ khác, dù người ấy đang là một đứa bé sơ sinh, vừa đi ra khỏi cung lòng của mình.
Trái lại, khi nói đến « VIỆC », chúng ta không thể không nhắm tới những kết quả cụ thể. Trong công việc, chúng ta phải biết Thương Lượng. Khởi điểm là những nét khác biệt, trong cách ghi nhận tin tức, trong cách thuyên giải, tìm ra ý nghĩa, hay là trong những phản ứng xúc động, cũng như trong các thể thức thiết lập những quan hệ trao đổi. Nhưng tận điểm là nơi HỘI NGỘ, là những điểm đồng ý với nhau, hay là một số giá trị đang được cùng nhau chia sẻ. Và trong cuộc sống làm người, chỗ nào có hội ngộ, chỗ ấy có minh đức. Minh Đức vừa là Anh Sáng, vừa là Năng động. Vừa là Hiểu biết, vừa là Tình thương.

***

Bà Chia Sẻ số Hai : Người và Việc không được
đồng hóa lẫn lộn vào nhau

Khi nói đến Việc, chúng ta nhắm tới những kết quả cụ thể, thích hợp cho cả hai người đang trao đổi và thương lượng với nhau. Trong điều kiện hiện tại, họ và chúng ta đang có những sở thích, nhu cầu và giá trị khác nhau. Đó là lẽ thường tình, tất yếu. Cho nên, khi họ và chúng ta cảm nghiệm những quan hệ tranh chấp và xung đột, con đường cần dấn bước là sáng tạo một cách hữu hiệu và khoa học vùng giao tiếp, hội tụ. Trên đó, quyền lợi, nhu cầu của cả hai bên đều được coi trọng.
Lẽ đương nhiên, người và việc, trong thực tế cụ thể, đang giao thoa chằng chịt và khắng khít vào nhau, chồng chéo lên nhau một cách phức tạp, đến độ chúng ta nhiều khi không biết phải bắt đầu tháo gỡ từ chỗ nào.
Vì thiếu lối nhìn đứng đắn và phương pháp giải quyết hữu hiệu, nhiều người chấp nhận hy sinh hay là xóa bỏ những quyền lợi riêng tư của mình, để bảo tồn những quan hệ tốt đẹp với kẻ khác.
Nhằm bênh vực cách làm nầy, những người ấy thường lặp đi lặp lại và đề cao câu tục ngữ : « Một sự nhịn, chín sự lành ».
Trong thực tế cụ thể, họ NHỊN ở ngoài mặt. Nhưng trong nội tâm, một tiếng nói cứ ngày đêm lải nhải bên tai họ, trách mắng họ : « Mày dại khờ. Mày hèn nhát. Mày để cho kẻ khác chèn ép, ức hiếp mày ». Rốt cuộc, trong những điều kiện như vậy, « chín điều lành » không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, họ có thể trầm mình trong những hội chứng buồn lo, hay là mất ăn, mất ngủ, khó tiêu hóa...Nguyên nhân chính yếu của bao nhiêu hiện tượng tâm thần ấy là nhu cầu cơ bản của họ không được nhìn nhận, tôn trọng, thỏa mãn và đáp ứng.
Ngoài ra, rất nhiều người dễ lầm tưởng rằng : Để có một quan hệ hài hòa với một người, chúng ta PHẢI đồng ý với người ấy, trong tất cả mọi vấn đề. Chúng ta PHẢI chia sẻ mọi giá trị của người ấy.
Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa có khả năng đem ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những tầng lớp tin tưởng và qui luật vô thức như vậy, đã ăn đời ở kiếp từ bao nhiêu năm trong nội tâm, chúng ta vẫn tiếp tục bị khống chế : Chúng ta chưa « biết mình là ai », chưa trở thành Bản Ngả có ý thức độc lập và tự lập nhạy bén và sáng suốt.
Khi nói đến Bản Ngã, chúng ta cũng dễ lầm tưởng rằng : đó là một kết quả « hoặc có hoặc không ». Trong thực tế sinh động của cuộc sống hằng ngày, trái lại, Bản Ngã là một tiến trình « vừa có vừa không », làm bằng những bước đi, những bài học, những thất bại và những thành công, không ngừng tiếp nối nhau. Bản Ngã là một hiện thực rất phức tạp.
Nhìn lại cuộc đời, tôi nhận thấy tôi đã vi phạm nhiều lỗi lầm. Những ý định đã có mặt trong nội tâm của tôi, không phải luôn luôn là những ý định trung trực. Thêm vào đó, trong lứa tuổi « ăn chưa no lo chưa tới », tôi đã góp phần, tạo nên nhiều vấn đề tranh chấp và xung đột, khi sống và làm việc với bạn bè đồng liêu.
Mặc dù vậy, tôi vẫn là con người có giá trị. Ngày hôm nay, một số bạn bè luôn luôn thương tôi. Về mặt luân thường, tôi không phải là thánh nhân, cũng không phải là ác quỉ. Trên bình diện khả năng chuyên môn và nghề nghiệp, trong thời gian phục vụ trẻ em chậm phát triển, tôi đã tạo niềm tin cho những học sinh, mà cha mẹ đã giao phó cho tôi. Trên bình diện lý tưởng, tôi đã kinh qua những chặng đường « ba chìm bảy nổi tám lênh đênh », và tôi không ém nhẹm những hèn yếu và phản bội ấy. Nhưng cũng nhờ đó, tôi học được bài học « đồng cảm và tha thứ » đối với những ai « mang tiếng bỏ cuộc, đầu hàng », trên bước đường làm người.
Xuyên qua bao nhiêu nhận xét cụ thể ấy, tôi muốn khẳng định một số điểm rất quan trọng sau đây :
Nhờ vào khả năng sống và xây dựng những quan hệ đặt nền tảng trên tình người, tình đồng bào, tình nhân loại, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua những tình huống tranh chấp và xung đột, khi hai người hoặc hai phe đang có những quyền lợi khác biệt nhau.
Mặc dù vậy, chúng ta không gắn chặt vào nhau hai lãnh vực « Người và Việc ». Chúng ta không dẹp bỏ quyền lợi và nhu cầu chính đáng của mình, chỉ vì để duy trì một quan hệ tốt đẹp với những người cùng chung sống.
Chúng ta cũng đừng lừa gạt mình, khi nêu ra lý do « Bản sắc, Bản Ngã », để phủ nhận quyền lợi và nhu cầu làm người của kẻ khác. Bản Ngã là một con đường hay là một tiến trình cần xây dựng và phát huy cũng như đổi mới, từng ngày. Bản Ngã không bao giờ là một tận điểm bất di bất dịch. Nói cách khác, chúng ta không thể làm người, chừng nào chúng ta không biết coi trọng quyền làm người cơ bản của người khác. Trái lại, khi chúng ta, một cách đơn phương, vô điều kiện, tìm cách thăng tiến chất lượng làm người của kẻ khác, chính chúng ta cũng đang đi lên, tiến tới trên con đường thành người.
Nói tóm lại, trong cả hai lãnh vực Người và Việc, một đàng chúng ta cần ý thức và khẳng định nhu cầu cơ bản và chính đáng của mình. Đàng khác, không những chúng ta tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác, chúng ta còn có trách nhiệm « đồng cảm » với họ, bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu làm người của mình.
Nhu cầu, như tôi đã nhấn mạnh trong nhiều bài chia sẻ, thường có mặt ở đằng sau mỗi xúc động. Nói rõ hơn, bốn thành tố Nhu Cầu, Xúc Động, Yêu Cầu và Giới Hạn giao thoa chằng chịt với nhau. Khi xây dựng quan hệ hài hòa cũng như khi thương lượng, chúng ta cần phải ý thức một cách sáng suốt về sự có mặt của bốn thành tố ấy.
Ý thức như vậy có nghĩa là xác định, với những phương tiện như : gọi ra ánh sáng, kêu tên, diễn tả bằng ngôn ngữ, tìm phương tiện đáp ứng và thỏa mãn.
-Người và Tôi cần gì ? (nhu cầu),
- Người và Tôi cảm nghiệm thế nào ? (xúc động),
- Người và Tôi muốn gì ? (yêu cầu hay là ước vọng),
- Người và Tôi không thể chấp nhận những điều kiện khách quan nào ? (giới hạn hay là ngưỡng khổ đau).
Nếu ngày ngày, chúng ta học tập, tôi luyện, để phát huy ý thức về bốn thành tố trên đây, nơi người khác cũng như trong chính bản thân mình, chúng ta đang ở trên con đường làm người hay là trở thành Bản Ngã. Đồng thời, chúng ta cũng đang tạo điều kiện năng động, giúp đỡ kẻ khác làm người với chúng ta, như chúng ta.

Bài Chia Sẻ số BA : Xây dựng Quan Hệ
một cách « vô điều kiện », với sáu bước đi tới

Khi chúng ta xây dựng quan hệ giữa người với người, mục đích mà chúng ta cần nhắm tới là lắng nghe, tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Chúng ta không nuôi ẵm ý đồ thay đổi kẻ khác, tìm cách lèo lái hay là ép buộc họ nhận làm của mình những quan điểm chủ quan của chúng ta. Tiến trình xây dựng nầy vẫn có mặt, khi chúng ta thương lượng với mục tiêu cụ thể là thành đạt những đồng thuận. Với kết quả khách quan nầy, người khác tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của tôi, cũng như tôi tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của kẻ khác. Cho dù kết quả cuối cùng nầy không thành đạt, tôi vẫn coi trọng tính người và tình người của kẻ khác. Không vì một lý do nào, tôi tranh giành độc quyền làm người cho tôi và tìm cách hạ bệ kẻ khác xuống hàng « phế liệu bỉ ổi ». Nói khác đi, tôi không thể nhân danh bất kỳ một lý tưởng nào, cho dù cao cả đến đâu, để truất phế quyền lợi và giá trị làm người của kẻ khác.
Tôi chọn lựa « thái độ sống và làm » như vậy, « một cách đơn phương, vô điều kiện », thậm chí khi kẻ khác hô hào bôi nhọ và truất phế tôi. Tôi tiếp tục xây dựng những quan hệ hài hòa và tôn trọng , đối với kẻ khác, mặc dù họ không đáp ứng, trong ngôn ngữ và hành động của mình.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, Bài Chia Sẻ Số Ba nầy sẽ giúp chúng ta xác định một cách cụ thể và rõ ràng những bước đi lên, hay là những tác động, cần được thực hiện, trên tiến trình xây dựng quan hệ giữa người với người.
Trên con đường làm người nầy, tôi không lẻ loi, cô đơn một mình. Nhiều tác giả có tầm cỡ quốc tế như R. FISHER, D. STONE, Stephen R. ROGER, Marshall B. ROSENBERG, Gerald JAMPOLSKY...(4), và nhất là NGUYỄN TRÃI, trong lòng Đất Nước Đại Việt, đang có mặt với tôi. Sức mạnh nội tâm của những vị ấy đang là động cơ thúc đẩy tôi tiến tới, mặc dù con đường còn hiểm trở, đầy chông gai.

Tiến trình xây dựng quan hệ tích cực và hài hòa bao gồm sáu bước quan trọng sau đây (5) :
Bước thứ nhất : Vừa tình vừa lý,
Bước thứ hai : Lắng nghe và hiểu biết,
Bước thứ ba : Diễn tả, thông đạt một cách rõ ràng trực tiếp, không úp mở, ngụy trang,
Bước thứ bốn : Khả tín trong ngôn ngữ và hành động. Đồng thời, kiểm chứng một cách khoa học những tin tức, trước khi tin lời nói của kẻ khác,
Bước thứ năm : Trau dồi khả năng thuyết phục, khi thương lượng, thay vì đàn áp, cưỡng chế, nhất là dùng bạo động ép buộc kẻ khác đồng ý, ký tên,
Bước thứ sáu : Nhìn nhận và đón nhận giá trị làm người của kẻ khác, bất kể họ là ai.
***
Bước thứ nhất : Coi trọng Lý và lắng nghe Tình
Khi dấn bước vào con đường xây dựng quan hệ, cũng như khi thương lượng về những quyền lợi cụ thể và chính đáng, Tình và Lý là hai tiếng nói cần được coi trọng và lắng nghe, một cách đồng đều.
Lý nằm trong địa hạt tư duy, suy nghĩ, lý luận, lối nhìn hay là thuyên giải. Khi lý không được coi trọng, một cách đúng tầm, chúng ta sẽ không biết mình đi về đâu, đi trên con đường nào, đi với phương tiện nào, đi theo thứ tự nào...Lý là ánh sáng soi đường dẫn lối, nhất là về những điều cần làm, những cạm bẫy nên tránh.
Một cách đặc biệt, chúng ta vận dụng lý, trong 4 địa hạt khác nhau :
Địa hạt thứ nhất : khảo sát những vấn đề cụ thể mà chúng ta đang gặp, bằng cách trả lời những câu hỏi : điều gì, thế nào, tại sao, với ai, ở đâu...
Địa hạt thứ hai : xác định nguồn gốc hay là nguyên nhân đã gây ra cho chúng ta những khó khăn hiện thời. Thông thường, chúng ta quay về quá khứ, để khảo sát khía cạnh nầy.
Đia hạt thứ ba : khám phá và liệt kê những đường hướng giải quyết hay là những phương pháp tiếp cận, trong đó có những chủ thuyết hiện hành đang được ứng dụng trong nhiều môi trường khác nhau. Trong địa hạt nầy, chúng ta hướng đến tương lai gần và xa, để tìm ra những chân trời rộng mở.
Địa hạt thứ bốn : những bước cụ thể cần thực hiện, theo một chương trình hay là kế hoạch dài hoặc ngắn hạn. Ở đây, chúng ta đi từng bước khoan thai, không nôn nóng muốn đến điểm hẹn ngay lập tức. Chúng ta không thúc ép hoặc cưỡng bức chính mình. Không đứng núi nầy trông núi nọ. Giờ phút hiện tại được chúng ta đón nhận như một quà tặng cao quí. Le présent est un présent. Từ présent trong vế đầu có nghĩa là hiện tại. Từ thứ hai có nghĩa là một món quà, một của lễ.
Một cách cụ thể, trong vấn đề thương lựơng có tính khoa học, chúng ta cũng đi lên từng bước một, kinh qua những giai đoạn thiết yếu y hệt như vậy.
Giai đoạn Một : Liệt kê những vấn đề của cả hai bên.
Giai đoạn Hai : Xác định những quyền lợi hay là lợi ích, mà mỗi bên đặt lên bàn thương thuyết ( interests).
Giai đoạn Ba : Cả hai bên ngồi lại khảo sát với nhau những con đường có thể chọn lựa, khả dĩ thỏa mãn từng quyền lợi của mỗi bên (options).
Giai đoạn Bốn : Khảo sát những tiêu chuẩn khách quan, hợp lý, hợp pháp của mỗi con đường có thể chọn lựa, và được cả hai bên chấp thuận ( criteria).
Giai đoạn Năm : Cùng nhau quyết định và chọn lựa những điểm đồng ý (agreements).
Giai đoạn Sáu : Đề xuất một lối thoát « tôn trọng tình người và tính người » cho cả hai bên, khi công cuộc thương lượng không mang lại những kết quả đồng thuận mong muốn (alternatives).
Mặc dù với bao nhiêu cách làm hợp lý ấy, chúng ta không thể không ngồi lại, cùng nhau lắng nghe « những vết thương lòng rướm máu » của nhau. Xúc động là động cơ thúc đẩy chúng ta làm người. Quên mất yếu tố « Tình », chúng ta chỉ là gỗ đá. Chúng ta không còn là con người. Và khi không cưu mang chất người trong lòng mình, làm sao chúng ta có thể thương lượng ? Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ biết « dùng lý của kẻ mạnh », nghĩa là đi vào con đường súng ống, bom đạn, hận thù, chết chốc và lầm than...
Trong phần HAI vừa qua, tôi đã nói khá nhiều về lắng nghe, nhìn nhận, tìm hiểu, tôn trọng. Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều :
Duy những ai đã bị khổ đau nghiền nát trong cuộc đời, mà vẫn có khả năng vùng đứng lên, người ấy đang có một kho tàng lớn lao, trong nội tâm : « biết ĐỒNG CẢM » với mình và với người khác. Với một tấm lòng « đầy Hiểu Biết và Tình Thương » nầy, chúng ta mới có thể lắng nghe lời của NGUYỄN TRÃI :
« Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến,
« Vun trồng CÂY ĐỨC, nuôi con ăn. »
***
Bước thứ hai : Tìm hiểu kẻ khác
Tìm hiểu kẻ khác bao gồm nhiều động tác ăn khớp với nhau như : lắng nghe kẻ khác, đi lại con đường tư duy của họ, đặt ra những câu hỏi cụ thể và chính xác, để yêu cầu họ giải thích cho chúng ta khung qui chiếu của họ.
Hẳn thực, khung qui chiếu bao gồm nhiều thành tố tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Và mỗi người có một khung qui chiếu riêng biệt, độc đáo, trên con đường tư duy của mình, mặc dù bộ sườn hướng dẫn vẫn luôn luôn bao gồm bốn thành tố :
- Thành tố thứ nhất là thể thức thâu lượm và ghi nhận những tin tức do môi trường cung ứng,
- Thành tố thứ hai mang tên là « Tiến trình tư duy ». Ở đây, những động tác được chúng ta thực hiện mang nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo sở thích và thói quen của mỗi tác giả : Nhận thức, lối nhìn, quan diểm chủ quan, thể thức thuyên giải, những nấc thang suy luận, cách thế nhìn đời, vũ trụ quan. Tên gọi bên ngoài đã khác nhau. Huống hồ khi đi vào nội dung cụ thể, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ý kiến. Người xưa đã có những nhận xét tương tự, trong câu nói « Bá nhân, bá tánh ». Một trăm người có mặt, sẽ trình bày một trăm cách thấy khác nhau.
- Thành tố thứ ba là những tình trạng của nội tâm, bao gồm nhiều xúc động. Và trong lãnh vực nầy, như trên đây tôi đã nói tới, chúng ta cần phân biệt : nhu cầu, yêu cầu, giới hạn, phản ứng nội tâm với rất nhiều danh hiệu khác nhau.
- Thành tố sau cùng nằm trong địa hạt quan hệ tiếp xúc và trao đổi.
-Khi lắng nghe và tìm hiểu khung qui chiếu của kẻ khác, thái độ mà chúng ta cần ôm ẵm, tôi luyện và mài nhọn, mỗi ngày, là hiếu kỳ, thích học hỏi. Và bài học khó khăn nhất, trong lòng cuộc đời là « biết mình và nhận mình đã SAI LẦM ». Sở dĩ như vậy, vì « Tư Duy Độc Lộ » và « Tư Tưởng NHỊ NGUYÊN » đang trấn áp cõi lòng của mỗi người. Với tư duy độc lộ, chúng ta chỉ thấy một con đường duy nhất : tôi đúng, kẻ khác sai. Với tư tưởng nhị nguyên, trái lại, chúng ta giành phần tốt cho mình và coi kẻ khác là phế liệu, đồi trụy và ngụy phản.
***
Bước thứ ba : Diễn tả mình và thông đạt một cách trong sáng
Trong bốn nghìn năm văn hiến, chúng ta đã phải trải qua « Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ». Cho nên, vì lý do sống còn và chiến đấu chống ngoại xâm, chúng ta đã tạo cho mình một thói quen hào hùng là « có mặt khắp mọi nơi, biến mất bất kỳ lúc nào, không ai hay, không ai biết ». Duy tiếng « Dạ », hoặc tiếng « Vâng » của chúng ta cũng có hai nghĩa « đồng ý » và « không đồng ý ». Một cách nào đó, mỗi lần phát biểu, tôi luôn luôn muốn cho kẻ khác phải hiểu rằng : Tôi nói vậy, nhưng không phải vậy. Trường hợp tôi sai lầm, tôi vẫn còn có lý do, để tự biện minh.

Thêm vào đó, cách giáo dục và dạy dỗ của các Thiền sư, trong ba Triều Đại phồn thịnh là Lý, Trần và Lê, luôn luôn đề cao phương pháp « vô ngôn », và khinh thường lời lẽ dài dòng, luộm thuộm. Cho nên, chúng ta không có thói quen « nói nhiều, nói hết, nói đúng đích, nói cho đến nơi đến chốn ». Chúng ta có xu thế « gợi ý », đưa tay « chỉ mặt trăng », và không bao giờ phát huy nhu cầu « đụng đến mặt trăng », với hai tay chứng nghiệm.
Ngoài ra, vì đất nước của chúng ta nhỏ bé, bên cạnh một lãnh thổ lớn lao có vị thế và uy quyền lâu đời, chúng ta khôn ngoan, không muốn đương đầu, trực diện, nhìn thẳng mặt. Chúng ta có kế sách « thu mình lại », hay là « rút vào hang động », như con chuột, trên đường di động của con voi đồ sộ, nặng nề, dập nát tất cả những gì không biết lẩn tránh ra hai bên.
Trong điều kiện và thân phận của con người, mọi phương tiện đều có tính lưỡng năng, cơ hồ con dao hai lưỡi, vừa có ích trong khía cạnh nầy, vừa gây tai hại ở một khía cạnh khác. Nếu chúng ta quá đề cao một phương tiện, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng : không có một phương tiện nào khác, ngoài cách làm độc đáo của chúng ta.
Trong vấn đề diễn tả và thông đạt, chúng ta cũng còn ở trong một tình thế lưỡng năng như vậy. Chúng ta tự đặt mình trong điều kiện khẩn trương và chiến đấu. Cho nên chúng ta luôn luôn quyết định một mình, không cảm thấy nhu cầu phải tham khảo những người khác. Hệ quả của tình trạng nầy là chúng ta thông đạt « một chiều ». Kẻ khác có bổn phận lắng nghe và thừa hành. Họ không có quyền « góp ý và phản hồi ». Thêm vào đó, sau bao nhiêu năm hòa bình, chúng ta vẫn còn giữ lại thói quen của thời chiến, luôn luôn ngụy trang mỗi tin tức phát ra. Nói đúng hơn, chúng ta úp úp, mở mở... đến độ chỉ chúng ta mới hiểu chúng ta muốn nói gì. Nếu người khác không hiểu, hỏi lại... họ sẽ bị chúng ta gắn vào một nhãn hiệu là « kém thông minh, không bén nhạy... », hay là « có ý đồ phản động, chống đối... »
Tôi cố tình phân tích một cách cặn kẻ như vậy, nhằm gây ý thức rằng : làm người, chúng ta không thể không học. Học mỗi ngày. Học với mọi người, thậm chí với một trẻ sơ sinh, vừa ra khỏi lòng mẹ.

* Bài học thứ nhất là lắng nghe một cách trân trọng, khi kẻ khác nói.
* Bài học thứ hai là biết nêu ra những câu hỏi, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác diễn tả, chia sẻ con người đích thực của mình.
* Bài học thứ ba là nói về thực tại, thực tế và thực chất của mình. Hẳn thực, không ý thức về mình, không cưu mang trong mình một mục đích, một chí hướng rõ ràng và trong sáng, làm sao chúng ta có thể nói. Nói phải chăng là chia sẻ chính mình một cách trung thực, thay vì lượn lẹo ?
Tất cả những gì tôi đang có, trong bản thân và cuộc đời, đều là quà tặng, do kẻ khác mang đến cho tôi. Tất cả những gì tôi ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH, là quà tặng, tôi có trách nhiệm chia sẻ lại cho người khác, nhất là những thế hệ đến sau tôi. Khi chia sẻ như vậy, chúng ta hãy có gan nói về mình, dùng sứ điệp « Ngôi Thứ Nhất số ít ». Chính tôi đã thấy. Chính tôi đã nghe. Chính tôi đã cảm. Chính tôi đã có kinh nghiệm. Chính tôi đã CHỨNG NGHIỆM. Tôi không lặp lại như keo vẹt, những lời đồn thổi hay là những dư luận không có căn cứ. Tôi không bịa đặt. Tôi không vẽ vời sự thật để quảng cáo và tuyên truyền cho cá nhân của tôi.
Chia sẻ như vậy không phải là lên mặt mô phạm, dạy đời. Nhưng là dâng hiến một tấm tấm lòng làm người, cho anh chị em đồng bào, đồng loại, đúng như NGUYỄN TRÃI đã nói, cách đây hơn năm thế kỷ :
« Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ.
« Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ».
***
Bước thứ tư : Khả tín và tin vào người
Trong đọan nầy, tôi muốn nhấn mạnh hai điều : Thứ nhất là sống làm sao, để xứng đáng với lòng tin của kẻ khác. Thứ hai là tin vào người khác, một cách sáng suốt và khôn ngoan. Không nhắm mắt tin, một cách mù quáng, trước khi kiểm chứng một cách khoa học những điểm tựa của lòng tin.
Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể trình bày một cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài trọng điểm như sau :
Thứ nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác và rõ ràng. Ví du, khi tôi hẹn với ai, tôi sẽ có mặt lúc sáu giờ chiều, tôi không thể nhẫn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ, thường thường... Phương pháp « năm ngón tay » của A : ROBBINS, mà tôi đã giới thiệu khi bàn về Vô Thức, trong một bài chia sẻ, có thể giúp tôi phát huy lòng tin nơi kẻ khác (6).
Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết không phải là chân lý. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những bình diện khác nhau, trên tiến trình tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất lòng tin của những ai nghe chúng ta.
Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc, đúng thể thức và đúng số liệu...Khi nói mà không làm, hay là làm một cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối.
Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán » : Nói và làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm.
***
Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là tin vào người, trong những điều kiện nào, với những mức độ như thế nào.
Trên bình diện nầy, người chủ động vẫn là chính chúng ta.
Khi lời nói của kẻ khác không rõ ràng, chúng ta hãy giúp họ mang đến cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết rõ vào giờ ấy bạn hay bị cản trở, vì công việc bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết trước lúc bảy giờ, có được không ?
Trường hợp kẻ khác đã lỗi hẹn, chưa hẳn vì họ giả dối, muốn lừa gạt hay là có ác tâm và ác ý. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ý muốn, vào phút cuối cùng, không thể tiên liệu, tiên phòng Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ bị té ngã, gãy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên, họ đã lỗi hẹn với chúng ta.
Trường hợp kẻ khác thuộc hạng người không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa hẳn vì họ xấu về mặt luân lý hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang làm cho họ kiệt quệ, về mặt ý chí và trí nhơ, nên họ không bao giờ có khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết.
Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lãnh vực quan hệ giữa người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có thái độ lắng nghe, tìm hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin tức mà chúng ta đã thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người ấy vẫn được chúng ta kính trọng, vì họ là người. Trong đa số trường hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ, để dần dần trở nên khả tín, đối với những người khác.
***
Bước thứ năm : Thương lượng và thuyết phục, thay vì cưỡng chế
Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRÃI là tấm gương sáng ngời, không những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đã xác định phương hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng :
« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn,
« Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. »
Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang còn thống trị, trong tâm hồn, con người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ đang còn làm « chó sói » đối với nhau, như người La Tinh đã có nhận xét, cách đây hơn một nghìn năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta chỉ thuyết phục, soi sáng, thay vì cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh trừng, khi kẻ khác không đồng ý với chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như một của chúng ta, và không biết coi trọng phía bên kia đang có những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng như thế nào.
Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả tư cách làm người như chúng ta, ngang chúng ta.
Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lý, hợp pháp và hợp tình được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật cho bên kia.
Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm người với mình, giống như mình. Và như trước đây tôi đã nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết làm người với nhau như vậy, họ có « một trăm con mắt », để nhìn. « Một trăm lỗ tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả tim », để làm người và làm NGƯỜI anh em (7).
***
Bước thứ sáu : Nhìn nhận và Chấp nhận nhau
Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi người khác và chúng ta không chấp nhận nhau, MỘT CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ tình người. Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của nhau.
Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất yếu sau đây :
Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn mình tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.
Thứ hai, con người ấy đã trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta tìm hiểu, đồng cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng ta.
Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi dưỡng và phát huy lòng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.
Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở, cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy mình rõ hơn, với bao nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người khác.
Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm gì, thuộc lứa tuổi nào... cũng đang bổ túc cho chúng ta, ở một phương diện cụ thể nào đó. Cho nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho bản thân và cuộc đời của mình. Trong Sa Mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A. Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm một mình giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và lòng biết ơn. Anh mắt và đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng Ân » làm cho ông đã chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người, với con người, nhờ con người.

Tháng 8 năm 2008
Notre Dame de FATIMA
CH-1694 ORSONNENS/Fr
Suisse
NGUYỄN Văn Thành

Bí Chú :
1) J.J. CRÈVECOEUR – Relations et Jeux de Pouvoir – Equinoxe 21, Toulouse 1999
2) 100 bài thơ tình – Nhà XbGiáo dục, Hà Bội 1993
3) Stephen R. COVEY – The 7 habits of higly effective people – Simon&Schuster, London 1989
4) D.STONES – Difficult conversations – M.Joseph, London 1999
M.B. ROSENBERG – Nonviolent Communication –
Puddle Dancer Press, CA 2001
5) Roger FISHER – Getting Together – Business Books, London l889
Roger FISHER – Getting to Yes – Penguin Books, N.Y. 1991
Roger Fisher – Beyond Machiavelli – Tools for coping
with conflict – Harvard University Press, London 1994
6) R. ROBBINS Unlimited Power : a Black choice –
Simon&Schuster, N.Y.1997
NGUYỄN Văn Thành – Sơn Tinh và Thủy Tinh – TN,
Lausanne Mùa Thu 2003
7) NGUYỄN Văn Thành – Đồng Cảm để Đồng Hành –
Tình Người 2003

Tác giả: Nguyễn Văn Thành

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2009

Hai Nụ Hôn

Có thể trong cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian, Ngài đã được hôn nhiều lần. Chẳng hạn như Mẹ Maria và thánh Giuse chắc chắn đã hôn Ngài nhiều lần khi Ngài còn bé thơ, những lúc ẵm bồng con trẻ trên tay, nhưng phúc âm đã không nhắc gì đến điều này. Phúc âm chỉ kể lại có hai lần Đức Giêsu được hôn kính trong cuộc đời công khai: Một lần do người tông đồ Giuđa và một lần do cô Maria Madalena.
Giuđa là một trong mười hai tông đồ Chúa đã chọn riêng ra để được huấn luyện đặc biệt, sống với Chúa thường xuyên hơn và được Ngài sai đi chuẩn bị cho sứ mạng của Ngài, bên ngoài nhìn vào nụ hôn "trò hôn thầy" đó hoàn toàn hợp tình hợp lý.
Còn Maria Madalena một người bị dư luận cho là không đàng hoàng, cô đi tìm Chúa và khi gặp Ngài, cô qùy xuống khóc ướt chân Ngài rồi lấy tóc mà lau và sau đó không ngừng hôn chân Ngài. Phúc âm Thánh Luca đã kể lại biến cố này nơi chương 7-45, nhiều người chỉ xét đoán bên ngoài nên không đồng ý với cái hôn của Maria Madalena. Ông Si-mon, người mời Chúa đến nhà dùng bữa đã lẩm bẩm trong lòng và nghi ngờ Chúa. Đó là thái độ của con người xét đoán từ bên ngoài, còn chính Đức Giêsu thì sao? Chúa đã trách cái hôn của Giuđa và binh vực cho nụ hôn Maria Madalena. Chúa xét đến tâm tư thầm kín của từng người. Giuđa đến hôn lên má Thầy mình, là một cái hôn để làm dấu hiệu cho người khác đến bắt Thầy, hôn để nộp bán Thầy mình. Còn Maria Madalena đến hôn chân Chúa để tỏ lòng thống hối bên trong, để xin ơn làm lại cuộc đời.
Cái hôn của Giuđa chỉ tốt ở bên ngoài, vì hợp với phong tục tập quán. Người đồ đệ hôn thầy mình đúng luật xã giao và hợp tình nghĩa, nhưng ý hướng bên trong thì thật là xấu xa. Còn nụ hôn của Maria Madalena bên ngoài không được thích hợp vì những lý do dễ hiểu, nhưng bên trong lại đầy những ý hướng tốt đẹp.
***
Cuộc sống với giá trị bên trong mới đáng kể: Nếu tôi thấy một người có những hành động và thái độ xem ra không thích hợp với thói quen xã hội và tôn giáo thì tôi đừng vội nghi ngờ và lên án. Họ có thể không được xã hội đồng ý, không được đám đông chấp nhận, nhưng biết đâu trước mặt Chúa họ không có gì phải hổ thẹn và thua kém ai. Rất có thể người đó đẹp lòng Chúa hơn tôi chăng? Chúa đã chẳng bênh vực cho Maria Madalena mà trách ông Si-mon hay sao? Điều mà mỗi người chúng ta cần lo sợ đề phòng hơn hết là có thể có thái độ giống như Giuđa, dùng cái hôn, dùng việc đạo đức tốt lành bên ngoài để nộp Chúa, bán Chúa. Đó là trường hợp chúng ta lợi dụng việc đạo đức để kiếm tiền, dùng thế giá tôn giáo để xây dựng uy tín riêng mình, viện cớ tôn giáo để bắt nạt kẻ khác. Nêu ra lý do đạo đức để khoe khoang bôi lọ, nói xấu người khác.... Thiếu gì những người quanh chúng ta đã nhân danh Chúa để giết Chúa và giết hại anh chị em xung quanh.
***
Lạy Chúa, xin dạy con sống trung thành với mọi người, đừng vội vàng kết án anh chị em mình. Xin dạy con sống quảng đại thông cảm với anh chị em nhiều hơn là nghi ngờ và kết án họ. Xin hãy biến con thành khí cụ bình an của Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Amen!

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2009

Hãy Trả Lời Cho Chính Bạn

Cuộc đối chất giữa một giáo dân thế kỷ 21 và nhân vật lịch sử Philatô
Thanh nữ: Này ông Philatô! Theo tôi, chính hành động trốn trách nhiệm của ông đã giết chết Chúa chúng tôi.
Philatô: Tôi không hề thấy mình trốn trách nhiệm. Sở dĩ tôi rửa tay là vì không muốn liên can đến những vấn đề mà tôi cho là chuyện nội bộ Do Thái giáo.
Thanh nữ: Ông biết rõ ràng là Đức Giêsu vô tội. Chính ông đã tuyên bố với mọi người là ông không thấy Người ấy có tội. Thế mà ông vẫn tuyên án tử hình.
Philatô: Tôi đã làm đủ mọi cách để trả tự do cho Giêsu. Tôi cho đánh đập thê thảm để kêu gọi lòng từ tâm của dân chúng. Nhưng họ không buông tha. Tôi lợi dụng thông lệ Vượt Qua để họ chọn lựa trả tự do hoặc cho Giêsu hoặc cho Barabas, tên tử tội ghê gớm nhất tôi đang cầm giữ và họ đã chọn Barabas. Chị còn đòi hỏi tôi làm gì nữa?
Thanh nữ: Tất cả những việc đó chỉ là mánh khóe. Điều tôi mong là ông áp dụng luật pháp cho đúng đắn, nghĩa là trả tự do cho một người vô tội mà không cần một điều kiện gì.
Philatô: Tôi không có quyền đó.
Thanh nữ: Thế ông không phải là người đại diện La mã để duy trì luật pháp sao?
Philatô: Chính vì tôi là người đại diện La mã mà tôi không có quyền tha bổng Giêsu.
Thanh nữ: Tôi không hiểu ông muốn nói gì.
Philatô: Chị hiểu rõ câu nói của tôi. Điều chị không hiểu là nhiệm vụ của tôi. Tôi là một nhà chính trị chứ không phải là một nhà luân lý. Bổn phận của tôi là duy trì an ninh trật tự một nước thuộc địa của Mẫu quốc La mã. Chúng tôi để cho người Do Thái thờ Giavê và tiếp tục lễ nghi của họ trong khi chúng tôi thờ thần Jupiter. Chị tưởng chúng tôi làm thế là vì tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người Do Thái à? Nghĩ như thế là lầm. Chúng tôi làm như thế vì lợi ích của chúng tôi, những người La mã. Nếu cấm đoán, họ có thể nổi dậy làm loạn...
Thanh nữ: Ông nói những điều đó để đi đến đâu?
Philatô: Để chị hiểu vì sao tôi không có quyền tha Giêsu.
Thanh nữ: Nhưng ông biết rằng Đức Giêsu không hề xúi dân làm loạn. Và trong giờ phút đau đớn đó Ngài không có lấy một người lính, thậm chí một người bạn cũng không cơ mà.
Philatô: Chính vì thế mà tôi không có quyền chọn lựa. Nếu dân chúng ủng hộ Giêsu, và cái chết của Giêsu có thể đem đến một sự nổi loạn, thì tôi phải suy nghĩ. Đàng này mọi người đã bỏ rơi Giêsu. Trong khi đó nhóm biệt phái xúi dục dân chúng lên án Giêsu vì những chuyện riêng tư của tôn giáo họ. Nếu tôi buông tha Giêsu, họ sẽ bất bình và có thể làm loạn.
Thanh nữ: Vì thế mà ông đã tuyên án Chúa chúng tôi à?
Philatô: Tôi đã nói rằng tôi không tuyên án kết án ai cả. Tôi trao Giêsu lại cho người Do Thái để họ làm gì mặc họ.
Thanh nữ: Ông là một người vô liêm sỉ.
Philatô: Đấy chỉ là vấn đề quan điểm.
Thanh nữ: Quan điểm gì nữa? Ông đã không dùng quyền hạn mình để bảo vệ một người mà ông biết là vô tội. Không quan điểm nào cho phép một bất công như thế.
Philatô: Với tư cách cá nhân, tôi thấy rằng người ấy vô tội, nhưng với tư cách là Tổng trấn La mã, tôi không có quyền để những tình cảm cá nhân len vào. Tôi chỉ có quyền làm những gì có lợi nhất cho Hoàng Đế của tôi mà thôi.
Thanh nữ: Tôi không cần biết ông nhân danh gì mà hành động. Tôi chỉ biết rằng nếu Chúa Giêsu vô tội thì ông là kẻ có tội.
Philatô: Sao chị lại buộc tội tôi? Tôi chỉ là một người bên ngoài giáo hội Do Thái, làm việc theo lập trường của mình. Những người có tội là những người nhân danh Thiên Chúa của họ để giết Giêsu. Chính những hạng người như chị đã đặt tôi vào tình trạng không thể buông tha Giêsu.
Thanh nữ: Ông là một người thủ đoạn. Ông muốn bịt miệng tôi bằng cách buộc tội tôi, dù ông biết rằng ông không có cơ sở.
Philatô: Có chứ!... Ngày Giêsu vào Giêrusalem thì một số người hăng hái tiếp đón Giêsu, hô to khẩu hiệu. Và một tuần sau thì cũng chính những người đó hét to hơn ai hết: “Hãy thả Barabas. Hãy đóng đinh Giêsu vào thập giá.” Tôi thấy lợm giọng, chị à! Hôm nay cũng vậy, giữa những thân hữu của chị, chị cũng ra vẻ bênh vực Giêsu và mạt sát tôi... Tôi thấy sợ! Tôi thấy mình trở lại cái ngày hôm ấy. Ngày xử án Giêsu, khi tôi lên tiếng hỏi, không có một nhân chứng nào bênh vực cho Giêsu! Ngày hôm đó, tôi chỉ thấy những kẻ chứng gian, những người phẫn nộ, những bọn tò mò, còn những người có cảm tình với Giêsu thì trốn biệt tăm tích. Ngày hôm đó, chỉ có một mình tôi, chị nhớ cho, tôi, Phongxiô Philatô, người mà chị vừa gọi là vô liêm sỉ đấy, chỉ có một mình tôingười duy nhất nói rằng Giêsu vô tội. Nếu hôm đó chị có mặt, chị sẽ là ai? Chị sẽ là một người trốn biệt hay một người la hét? Chị đừng nói rằng chị sẽ bênh vực, vì không có ai bênh vực Giêsu, ngoài tôi. Nếu chị gọi tôi là vô liêm sỉ thì chị sẽ là gì? Chị tự xét lấy, đừng trả lời tôi, hãy trả lời cho chính chị!

Trần Duy Nhiên

Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2009

Chuyển Biến Vô Thức Thành Ý Thức Để Làm Người Với Một Tấm Lòng Bao Dung (Thể theo khoa phân tâm trị liệu của Freud)

Trong mọi môi trường sinh hoạt hiện nay của xã hội, con người đang bị VÔ THỨC khống chế một cách trầm trọng. Cho nên, những khó khăn xuất hiện khắp mọi nơi, làm ô nhiễm những quan hệ giữa người với người. Bạo động trào dâng khắp tứ phía.
Nhằm nhận diện và đối diện những khó khăn ấy, đang gây nhiễu động trong nhiều lãnh vực như tôn giáo, chính trị, giáo dục…, tôi xin mao muội giới thiệu ba ý tưởng then chốt dưới hình thức ba bài chia sẽ như sau :
1.- Vô Thức là gì ?
2.- Vô Thức có một sức mạnh tàn phá hãi hùng, khi bị ức chế và giam giữ trong những hang động vòng vo, luẩn quẩn của nội tâm,
2.- Vô Thức cũng còn là một thách đố diệu vợi, nếu được phát hiện và gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một cách khoa học, với từng bước đi lên.

***

Bài chia sẻ số Một : Vô Thức là gì ?

Theo quan điểm của FREUD, nhà sáng lập Phân Tâm Học, Nội tâm bao gồm ba thành tố hay là ba cơ cấu tổ chức, khác biệt nhau, nhưng có những liên hệ mật thiết với nhau và thường xuyên tác động qua lại hai chiều trên nhau.
Cấu trúc thứ nhất là Tự Ngã,
Cấu trúc thứ hai là Siêu Ngã,
Cấu trúc thứ ba là Bản Ngã.

1.- Tự Ngã
Cấu trúc Tự Ngã còn mang tên là « Cái Ấy » (le Ça trong tiếng Pháp và The Id trong tiếng Anh). Cấu trúc nầy thành hình và xuất hiện rất sớm, trước hai cấu trúc kia. Xét về phương diện thứ tự thời gian, cấu trúc Tự Ngã đã có mặt, khi đứa bé đang còn là một thai sinh, trong lòng mẹ.
Nội dung của Tự Ngã bao gồm nhiều Xung Năng (Pulsion trong tiếng Pháp, hay là Urge và Drive trong tiếng Anh).
Để hiểu rõ một phần nào xung năng là gì, trong đời sống của một đứa bé sơ sinh, chúng ta cần phân biệt những yếu tố sau đây :
- Thứ nhất, xung năng là những sức ép hay là sức đẩy bật hướng đến sự sống, hoàn toàn tự nhiên và phản xạ, phát xuất từ những tầng sâu trong cơ thể của đứa bé. Khi đạt tới cao điểm, trong những chu kỳ và nhịp độ biến chuyển, xung năng sẽ tạo nên cho đứa bé, một tình trạng bực bội, khó chịu, căng thẳng... thúc ép nó đi tìm một đối tượng ở bên ngoài, để được giải tỏa, khai phóng và thỏa mãn.
- Thứ hai, trong những năm đầu tiên của cuộc sống, đứa bé còn ở trong tình trạng hoàn toàn vô thức và lệ thuộc. Các em chưa thể nhận biết xung năng của mình là gì, bắt nguồn từ đâu, hướng đến mục đích gì, đối tượng nào có thể đáp ứng và thỏa mãn. Các em chưa thể nào tự mình giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Các em chưa có khả năng dùng lời nói, để giải thích cho kẻ khác biết các em đang cảm nghiệm thế nào và đang có những nhu cầu như thế nào.
- Thứ ba, nhằm bộc lộ ra ngoài một cách khách quan, tình trạng bức xúc đang xảy ra trong nội tâm, các em chỉ có một số hành vi rất hạn chế như : khóc la, thét gào, vùng vẫy tay chân, thay đổi sắc mặt...
- Thứ bốn, lúc ban đầu duy người mẹ - hay là người thay thế mẹ - có mặt liên tục, suốt ngày đêm với đứa bé, mới có thể từ từ ý thức được nhu cầu của đứa bé và tìm cách đáp ứng, thỏa mãn những nhu cầu ấy. Chính vì lý do nầy, người mẹ được gọi là đối tượng đầu tiên, nguyên thủy của đứa bé mới sinh, trước tất cả mọi đối tượng khác. Đồng thời, người mẹ cũng đang đảm nhiệm vai trò « làm Siêu Ngã » cho đứa con.
- Thứ năm, trong ba năm đầu tiên của cuộc sống, nếu đứa bé không có mẹ và không có ai liên tục thay thế mẹ, trong vòng từ ba đến sáu tháng, em ấy sẽ phải chết, hay là trầm mình trong bệnh hoạn. Thể theo lối nhìn của Bác sĩ R. SPITZ, hội chứng « Thiếu Tình Thương » (carence affective hay là hospitalisme), đã bẻ gãy và vùi dập, trong đứa bé, mọi xung năng phát xuất từ sự sống và hướng đến sự sống (1). Nói cách khác, trước kia xung năng là một sức đẩy bật hướng đến sự sống. Bây giờ, vì sự sống không được đón nhận và nhìn nhận, xung năng đã đi vào con đường tàn lụi, hướng đến sự chết. Đó là Xung năng hướng đến sự chết. Lối nói được sử dụng trong tiếng Pháp là « pulsion de mort ».

2.- Siêu Ngã
Khi quan sát từ ngoài một đứa bé sơ sinh, trong những tháng ngày đầu tiên, chúng ta sẽ ý thức được thế nào là Tự Ngã, ở thể trạng thuần đơn, trước khi tiếp thu và hội nhập ảnh hưởng của hai cấu trúc kia là Siêu Ngã và Bản Ngã. Cuộc sống thường ngày, lúc bấy giờ, được phân chia thành 5 hoặc 6 chu kỳ. Mỗi chu kỳ bao gồm sáu giai đoạn tiếp nối nhau :
- Giai đoạn một : Giấc ngủ thâm sâu và bình lặng.
- Giai đọan hai : Giấc ngủ náo hoạt.
- Giai đoạn ba : Giai đoạn chuyển tiếp giữa ngủ và thức.
- Giai đoạn bốn : Tỉnh thức hoạt bát nhưng bình lặng.
- Giai đọan năm : Tỉnh thức náo động.
- Giai đoạn sáu : khóc la inh ỏi, trước khi trở lại giai đoạn một.

Một cách đặc biệt, vào giai đoạn Tỉnh thức hoạt bát và bình lặng (giai đoạn bốn), sau ngày sinh độ một tuần lễ, đứa bé đã bắt đầu vận dụng một cách năng động năm giác quan của mình, nhất là thị, thính và xúc giác.

Người lớn, nhất là bà mẹ, dựa vào ba giác quan chính yếu nầy, có thể kích thích đứa bé và trao đổi với em, miễn là bà biết tôn trọng một cách nghiêm chỉnh hai loại ngưỡng kích thích : không bao giờ ở dưới ngưỡng sơ khởi, không bao giờ vượt quá ngưỡng chịu đựng, còn được gọi là ngưỡng khổ đau.
Khi yếu tố kích thích ở dưới ngưỡng sơ khởi, đứa bé không phản ứng, không trả lời. Khi bà mẹ vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, tự khắc em sẽ có những phản ứng từ chối như khóc la, thét gào, rút lui, khép kín mình, ngoảnh mặt qua chỗ khác, múa động chân tay...
Trong cuốn sách « Quan Hệ Mẹ Con : bài học đầu tiên của cuộc sống », xuất bản năm 2000 (2), tôi đã trình bày và giới thiệu một số động tác cụ thể, mà bà mẹ hay là những người lớn trong gia đình có thể thực hiện, một cách dễ dàng, để tổ chức cuộc sống cho đứa bé sơ sinh, từ những ngày em mới sinh ra.
Khi tổ chức như vậy, người mẹ và những ai đang tiếp tay cho bà mẹ, đã bắt đầu đảm nhiệm « vai trò làm Siêu Ngã », nghĩa là từ từ chuyển biến Tự Ngã của đứa bé thành Bản Ngã, bằng cách cung ứng từ ngoài những khuôn khổ, những qui luật cũng như những đường hướng hoạt động.
Không có cái KHUNG « tạo an toàn » nầy, để đứa bé có thể nương tựa, qui chiếu và ngày ngày điều hướng cuộc đời, em sẽ suốt đời bơ vơ, loạn động, không có khả năng lớn lên, tăng trưởng, phát triển và trở nên người.
Sau nhiều năm quan sát, nghiên cứu, học hỏi... tác giả T.B. BRAZELTON đã đưa ra những điểm mốc sau đây (3):
- Chung quanh 3 tuổi, trẻ em cảm thấy rất quan trọng tất cả những gì mà em tự mình có thể làm ra,
- Khi trẻ em lên tới 5 tuổi, em sẽ cảm nghiệm chính con người của mình là « trung tâm » và « trọng tâm » của vũ trụ. Tất cả những điều còn lại đều là phụ thuộc, xoay vần chung quanh trung tâm ấy để phục vụ,
- Từ 6-7 tuổi trở lên, trẻ em bắt đầu có khả năng hướng mình ra bên ngoài, để học tập, tiếp thu những bài học về THỰC TẾ, và QUI LUẬT. Đây là yếu tố quyết định, cho cuộc sống thành người. Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa ý thức một cách rõ rệt về những khả năng và giới hạn cụ thể của mình, nghĩa là biết những gì mình làm được và những gì mình không có phép làm, chúng ta chưa thể TỰ LẬP và TRƯỞNG THÀNH, mặc dù tuổi đời đã vượt quá 20.
Để có thể thực thi và kiện toàn tiến trình xây dựng bản thân nầy, một đứa bé từ ngày sinh ra, cần bàn tay tổ chức và giúp đỡ của những người lớn trong gia đình, bắt đầu từ bà mẹ, là nhân vật gần gũi với em, hơn tất cả những người khác. Theo thuật ngữ của Phân Tâm Học, các vị ấy đang đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa bé, trong suốt tiến trình học làm người.
Vai trò làm Siêu Ngã bao gồm hai chức năng trọng yếu :
- Thứ nhất là soi sáng và hướng dẫn đứa bé về tất cả những gì em có thể làm hay là không thể làm. Đó là nguyên tắc thực tế (Réalité trong tiếng Pháp).
- Thứ hai là nâng đỡ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi, để em có thể từng bước đi lên, chấp nhận những bài học về qui luật làm người, một cách dễ dàng và hứng thú. Đó là nguyên tắc vui thích (Plaisir).
Thực ra, theo lối nhìn của Freud, thực tế và vui thích là hai bộ mặt khác nhau của một nguyên tắc duy nhất, trong cuộc sống làm người. Để trẻ em có thể tiếp thu và hội nhập một cách nhuần nhuyễn một bài học, trong bất kỳ lãnh vực nào, bài học ấy phải tạo vui thích và gây hứng thú cho trẻ em. Bằng không, em sẽ khước từ hay là bỏ cuộc giữa chừng. Đồng thời, bài học ấy phải tạo nên cho em một kỹ năng tinh nhuệ, khả dĩ giúp em sống tự lập sau này. Khoa Tâm Lý Sư Phạm càng ngày càng lắng nghe, tiếp thu và ứng dụng tin tức nầy, trong hai lãnh vực giáo dục và trị liệu.
Ngôn ngữ là một minh họa có khả năng giúp chúng ta hiểu rõ về mối liên hệ mật thiết giữa hai bộ mặt của nguyên tắc vui thích và thực tế. Sở dĩ trẻ em học nói huyên thuyên suốt ngày, vì em thích bắt chước người mà em thương mến. Đồng thời, nhờ biết nói, em có thể hiểu người khác và làm cho kẻ khác hiểu mình, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi bình thường hằng ngày.
Tuy nhiên, không phải bất cứ bà mẹ nào, khi sinh con ra, đều có khả năng làm Siêu Ngã, với những chuẩn mực quân bình và lành mạnh, như Freud đã đề xuất, nghĩa là hướng dẫn, soi sáng, thay vì áp đặt, cưỡng bức, ức chế, từ trên và từ ngoài. Thêm vào đó, để có thể hướng dẫn một cách hài hòa và hữu hiệu, bà mẹ phải học quan sát, lắng nghe đứa con của mình và tìm cách tiếp xúc, trao đổi với em. Những gì em đã bắt đầu làm được, bà mẹ sẽ khuyến khích em làm một mình, theo tốc độ của em. Không làm thay làm thế. Không bao che từ đầu chí cuối.
Có dịp quan sát cách làm của nhiều bà mẹ đem con đến khám tại phòng mạch của mình, Bác sĩ Phân Tâm D.W.WINNICOTT đã ghi nhận nhiều cách can thiệp khác nhau của các bà, sau khi họ nghe đứa con của mình khóc la , và đang có một vấn đề cần giải quyết(4).
Loại thứ nhất : bà mẹ trả lời quá sớm, trước khi đứa con có thì giờ cảm nhận hay là mơ tưởng, bằng một hình ảnh, vấn đề hiện tại của mình.
Loại thứ hai : bà mẹ trả lời quá chậm, sau khi đứa con thét gào và tỏ ra mệt mỏi, kiệt quệ, « đầu hàng », bỏ cuộc, vì không có ai lắng nghe, một cách đúng lúc và đúng tầm.
Loại thứ ba : cách thức bà mẹ trả lời không thích hợp với nhu cầu thực sự của đứa con. Ví dụ : đứa con bị ướt tã, khó chịu. Người mẹ lấy bình sữa ra, cho con bú.
Loại thứ bốn : bà mẹ trả lời theo nguyên tắc cố định, không tìm hiểu nhu cầu thực sự của đứa con nằm ở chỗ nào. Ví dụ : bây giờ là 4 giờ chiều. Theo ý của bà, bé khóc vì đòi cữ sữa thông lệ, đương khi nhu cầu thực sự của bé lúc ây là muốn đi ra chơi bên ngoài.
Loại thứ năm : bà mẹ trả lời, theo lối giải thích hoàn toàn tùy tiện và chủ quan, trước khi tìm cách kiểm chứng giả thuyết của mình. Ví dụ : theo ý của bà mẹ, bé khóc ghen, vì mẹ nói chuyện với bác sĩ... đương khi lý do thực sự là bé sợ người lạ mặt.
Lẽ đương nhiên, như trên đây tôi đã đưa ra nhận xét, vì thân phận và điều kiện làm người, không một bà mẹ nào, ngay từ ngày đầu tiên, khi đứa con sinh ra, đã biết làm Siêu Ngã, một cách hoàn hảo và tuyệt vời. Sai lầm là lẽ thường tình, tự nhiên. Điều cốt yếu là bà mẹ biết học. Biết dừng lại, khi thấy mình sai lầm. Biết lắng nghe, tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm và kỹ năng tinh nhuệ, trong lãnh vực nuôi dạy con cái. Và điều tôi muốn nhấn mạnh, trước tất cả mọi điều khác, là : Bà mẹ hãy HỌC với đứa con của mình. Chính thái độ và tác phong của em sẽ giúp chúng ta điều chỉnh những gì đã sai lệch, kiện toàn những gì đã tốt đẹp, bổ túc những gì còn thiếu sót. Và khi đứa con đã biết nói, chúng ta hãy tiếp xúc, trao đổi, lắng nghe, tìm hiểu, tạo cho em một khung gian diễn tả, bộc lộ nhu cầu của mình.
Với những điều kiện hành xử như vậy, khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Thất bại hay là lầm lỡ nào cũng có thể trở thành một bài học hay là một kinh nghiệm quí hóa, trong vai trò làm Siêu Ngã hướng dẫn và giúp đỡ con cái thành người.
Hẳn thực, khi đứa con bắt đầu tỏ thái độ phản kháng, chống đối hay là bị động, lệ thuộc, chúng ta cần lập tức nêu ra câu hỏi : phải chăng tôi đang thao tác một loại Siêu Ngã quá độc tài và nguyên tắc hay là quá bao che và nương chìu, khi không cần thiết.
Trong thuật ngữ « Siêu Ngã », được Freud sử dụng, (Sur-moi trong tiếng Pháp và Super-ego trong tiếng Anh), hai từ được ghép lại với nhau. Từ thứ nhất là « Siêu », có nghĩa là « ở trên », về mặt ý thức và hiểu biết. Nói cách khác, để có thể soi sáng và hướng dẫn đứa con của mình, người mẹ cần có một lối nhìn bao quát, toàn diện, nghĩa là nhận ra những liên hệ mật thiết giữa những tầng lớp khác nhau trong nội tâm của đứa con. Ngoài ra, bà còn phải thấy được ảnh hưởng của nhiều yếu tố có mặt trong môi trường đang tác động, bằng cách nầy hay cách khác, trên cơ thể non yếu của bé.
Từ thứ hai là Ngã, nghĩa là người mẹ đã hành xử như một chủ thể, có khả năng làm chủ bản thân và cuộc sống của mình. Cho nên, bà có khả năng « đồng cảm » với đứa con. Hiểu biết em từ bên trong. Khám phá hay là phát hiện được những nhu cầu và nguyện vọng của em, mặc dù em chưa có điều kiện và phương tiện diễn tả những tình trạng nội tâm, và nhất là những xúc động buồn lo, tức giận, sợ hãi...
Những nhà Phân Tâm, thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba sau Freud, sẽ sử dụng thuật ngữ « Bản Ngã Trợ Tá », (le moi auxiliaire), để xác định vai trò của người mẹ, đối với đứa con của mình, ít nhất trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc sống. Hẳn thực, khi người mẹ làm « Bản Ngã Trợ Tá », bà đang tạo ra cho đứa con những điều kiện thuận lợi, để đứa con từ từ trở nên một Bản Ngả tự lập. Bà mẹ là một tấm gương soi, trong đó đứa con nhận thấy con đường đi tới của mình. Ngày ngày, bà là người « bắc nhịp cầu », hay là người « làm trung gian », để đứa con có thể rời bỏ bến bờ lệ thuộc và từ từ đi qua bến bờ tự lập và hiểu biết.
Thông thường, người mẹ đảm nhận công việc nầy, với tất cả vốn liếng tự nhiên và trực giác có sẵn của mình. Trái lại, những nhà Tâm Lý Trị Liệu đặc trách về các trẻ em có những rối loạn tiếp xúc hay là những hội chứng Tự Kỷ « Autisme » (sống bít kín, không hòa nhập với bạn bè cùng trang lứa), cần kinh qua hơn bốn năm học, với nhiều lý thuyết chuyên môn và thực tập, mới có khả năng làm « Bản Ngã Trợ Tá » cho những loại trẻ em nầy. Họ tìm cách « đồng hóa » với trẻ em, nhằm giúp trẻ em từ từ « ngoại hiện », nghĩa là « phóng ra ngoài » những xung năng đang bị ứ đọng và kềm kẹp, ở bên trong nội tâm. Nhờ đó, trẻ em mới có cơ may khám phá và thực tập đời sống tiếp xúc và trao đổi với những trẻ em khác cùng lứa tuổi.
Tôi cố tình nêu lên một vài nhận xét chuyên môn như vậy, để nhấn mạnh rằng : Bắc nhịp cầu trung gian hay là làm Siêu Ngã « đứng đắn và lành mạnh », để giúp kẻ khác trở thành người, trong những quan hệ tiếp xúc hằng ngày là trách nhiệm, mà mỗi người trong chúng ta cần phát huy và học tập, để phục vụ anh chị em đồng bào. Đó là một cách « dựng Nước và giữ Nước », chưa được chúng ta lưu tâm, một cách thiết thực và nghiêm chỉnh.

3.- Bản Ngã (le Moi hay là the Ego)
Từ ngày sinh ra cho đến lúc lìa đời, học làm người là một tiến trình không bao giờ có dứt điểm. Tuy nhiên, gần như ở khắp nơi, trên mặt địa cầu, xã hội thường ấn định hai điểm mốc quan trọng : 7 tuổi là tuổi biết suy luận và phân biệt điều nào tốt nên làm, điều nào xấu phải tránh. Chung quanh hai mươi tuổi là điểm mốc thứ hai. Từ đây, mỗi người bước vào tuổi trưởng thành, phải đảm nhận trách nhiệm, trước mặt xã hội, về tất cả những hành vi của mình.
Thế nhưng, trong thực tế, ai đã thực sự làm người trưởng thành ? Ai có thể khẳng định rằng : tôi đã trở thành một Bản Ngã, tôi đã biết mình tôi là ai, cần làm gì, có những giá trị nào. Một cách đặc biệt, những người đã chọn lựa cho mình một lý tưởng, trong tinh thần « hoàn toàn tự do và sáng suốt », phải chăng họ đã nắm vững mọi đường đi nẻo về của mình, trong lòng cuộc đời ?
Trước một thách đố lớn lao tình cờ xảy ra, ngoài mọi dự tính, tất cả chúng ta đều có nguy cơ « bị dao động, mất quân bình ». Lúc bấy giờ, chúng ta lại phải tìm cách trả lời những câu hỏi cơ bản :
- Tôi là ai ?
- Phải chăng tôi có những khả năng cần thiết, để đương đầu với những vấn đề đang xảy đến cho tôi ?
- Phải chăng tôi vẫn còn là con người có giá trị ?
- Phải chăng tôi luôn luôn là con người được yêu thương và tôn trọng, trong những quan hệ với bạn bè, người thân và những ai quen biết ?
- Trong hoàn cảnh cụ thể hiện tại, tôi phải làm điều gì ? Điều nào là ưu tiên số một, cần được tôi thực thi, không trì hoãn ?
Trong những năm được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ trong gia đình, và suốt những tháng ngày được thầy cô và bao nhiêu người khác giáo dục, tại trường học và ngoài xã hội, phải chăng tôi đã được trang bị, một cách đầy đủ và kỹ lưỡng, để tiếp tục hiên ngang và can trường làm người, làm bản ngã ?
Cha mẹ tôi đã qua đời từ lâu, các thầy cô đã ra đi, khi nhiệm vụ hoàn tất... nhưng những « khuôn khổ », những bài học làm người, mà tôi đã tiếp thu và hội nhập với các vị, phải chăng đang còn là những vốn liếng sống động, quí báu có khả năng giúp tôi vượt qua những chặng đường gian truân ?
Nói một cách vắn gọn, phải chăng « cách họ dạy », hay là « cách họ làm Siêu Ngã » đang còn là động cơ thiết thực và hữu hiệu, ngày ngày thúc giục tôi HỌC làm bản ngã ? Ngày ngày làm kim chỉ nam, hướng dẫn tôi, trong chiều hướng học làm người ?
Sau khi QUÊN MẤT tất cả, tôi vẫn còn NHỚ được cái gì ? Điều nào đang luôn luôn sinh động cho tôi, với tôi và trong tôi, trên suốt con đường làm người, hay là làm bản ngã ?
Câu trả lời của tôi - bắt nguồn từ những bài học của Phân Tâm Học - bao gồm ba chiều hướng trọng yếu :
- Thứ nhất, làm bản ngả là BIẾT« đồng hành và chia sẻ » với bao nhiêu người khác đang chung sống hai bên cạnh. Sống làm người là một cuộc hành trình với nhiều bạn bè. Không ai là một cô đảo cô đơn, cô độc.
- Thứ hai, làm bản ngã là BIẾT « hướng dẫn và nâng đỡ » những người đang cần đến chúng ta, trong vấn đề vật chất, cũng như trên bình diện tinh thần. Ai ai trong chúng ta cũng đã thừa kế một gia tài. Đến lượt, chúng ta có trách nhiệm truyền lại gia tài ấy, cho người đến sau.
- Thứ ba, làm bản ngã là BIẾT « sống hạnh phúc » và « tạo hạnh phúc cho kẻ khác », với tất cả những vốn liếng sẵn có trong tầm tay của mình, không đứng núi nầy trông núi nọ, không chờ đợi có đủ mọi điều kiện, rồi mới bắt tay vào làm. Tạo hạnh phúc như vậy cũng là một cách « đồng hành và chia sẻ » với anh chị em đồng bào, đồng loại. Không một ai trong chúng ta là người hoàn toàn « vô sản ». Chúng ta đang có rất nhiều điều, để chia sẻ với người khác : một ánh mắt, một nụ cười, một lời yêu thương, một vành tai biết lắng nghe, một con tim « đồng cảm »...Sống hạnh phúc còn có nghĩa là « biết hóa giải hay là chuyển biến những khổ đau » đang xói mòn trong cuộc đời, ngày ngày trở thành vật liệu xây dựng bản thân.
Để có thể biết vận dụng ba con đường làm người trên đây, chúng ta không thể không HỌC. Học mỗi ngày. Học với mọi người. Học ăn, học nói, học gói, học mở.

***
Cách HỌC, vừa được nêu ra trên đây, theo lối nhìn của FREUD là không ngừng chuyển biến Vô thức thành Ý thức, biến điều chưa biết thành điều biết. Khi không biết hay là chưa biết, tôi sẵn sàng đặt ra câu hỏi và yêu cầu kẻ khác trả lời. Trái lại, khi nói về chính mình, tôi cần phân biệt một cách rõ ràng và chính xác điều nào thuộc về thực tế và thực tại của tôi, điều nào chỉ là giả định, suy đoán hay là thuộc về xu thế tổng quát hóa mà thôi.
Những điều tôi vừa đề xuất, xem ra có vẽ đơn sơ, hiển nhiên, thuộc khả năng bình thường của mỗi người, trong mọi tình huống tiếp xúc và trao đổi hằng ngày giữa người với người. Trong thực tế cụ thể, những cách làm ấy đòi hỏi một mức độ ý thức rất thành khẩn và bén nhạy, kết quả của bao nhiêu ngày tháng học hỏi, thực tập và tôi luyện. Chính vì những cách làm ấy chưa được coi trọng đúng tầm, « sau bốn nghìn năm văn hiến », chúng ta vẫn còn chưa « biết học ». Chúng ta chưa rút ra những kinh nghiệm làm người, từ lịch sử đầy máu xương và các câu chuyện Huyền sử. Ngày ngày, chúng ta vẫn còn « sắp hàng thành hai phe Sơn Tinh và Thủy Tinh », trong một chiến trận « nồi da xáo thịt » hay là « gà một nhà bôi mặt đá nhau ». Chúng ta tự hào đã thắng địch thù xâm lăng từ phương Bắc, phương Tây, phương Nam và phương Đông. Nhưng chúng ta đang ngã quị trước tên địch thù đã ăn đời ở kiếp, trong cõi lòng của chúng ta. Tên địch thù ấy là VÔ THỨC, còn mang tên là VÔ MINH trong Tâm Lý Phật Giáo.
Trong bài chia sẻ kế tiếp sau đây, chúng ta sẽ nhận diện và đối diện, bằng cách « gọi tên » người địch thù muôn hình và muôn mặt ấy.


Bài chia sẻ số HAI - Vô Thức : một chế độ sinh hoạt

Bái chia sẻ số Một trên đây đã cho chúng ta thấy : vào những ngày tháng đầu tiên, sau khi một đứa bé ra đời, Tự Ngã và Vô Thức trùng hợp và ăn khớp với nhau. Nhờ sự can thiệp của người mẹ và những người lớn khác trong gia đình, với tư cách là Siêu Ngả, Bản Ngã của đứa bé bắt đầu từ từ xuất hiện. Tuy nhiên, khi trở nên Bản Ngã, chưa hẳn đứa bé đã ý thức một cách trọn vẹn về tất cả những hiện tượng đang xảy ra trong nội tâm của mình, thậm chí sau khi biết nói và có khả năng tư duy. Thêm vào đó, chính người mẹ khi đóng vai trò làm Siêu Ngã cho đứa con, chưa hẳn bà đã ý thức một cách rõ rệt và sáng suốt về tất cả những gì bà đang làm, đang nói và đang cảm, khi tiếp xúc và trao đổi với đứa con. Trong tinh thần và ý nghĩa ấy, Vô Thức hay là Vô Minh có nghĩa là « Không Biết, Ngu Muội, U Tối, hay là Đui Mù trên bình diện tâm linh ».
Một đàng, Vô Thức có mặt trong tất cả ba cấu trúc Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Đàng khác, Vô Thức luôn luôn len lỏi nằm vùng và tác động trong suốt cuộc sống làm người của mỗi cá nhân, ở giữa lòng xã hội. Cho nên, theo ý kiến của một số đồ đệ của Freud, nội tâm có hai cơ cấu tổ chức khác nhau : Một bên là cơ cấu bao gồm Tự Ngã, Bản Ngã và Siêu Ngã. Cơ cấu thứ hai là chiến trường xung đột giữa hai thành tố : Vô thức và Ý Thức.
Theo lối nhìn của tôi, khi nói đến Vô Thức và Ý Thức, Freud không đề xuất thêm một cơ cấu tổ chức thứ hai của Nội tâm. Đó chỉ là hai chế độ sinh hoạt, hay đúng hơn, hai mức độ thức tỉnh, hai mức độ sáng suốt, hai mức độ hiểu biết, hai CHẤT LƯỢNG làm người. Cho nên, để trở nên Bản Ngã, chúng ta phải thường xuyên phát huy khả năng chuyển biến Vô Thức thành Ý Thức. Đành rằng, đó là một tiến trình không bao giờ kết thúc, chấm dứt và hoàn thành, bao lâu chúng ta còn mang thân phận làm người.


Sào huyệt thứ nhất của Vô Thức : ngôn ngữ được chúng ta sử dụng hằng ngày.

Khi người mẹ báo cáo với bác sĩ : « Đứa con của tôi rất khó tính. Nó khóc la và quấy rầy tôi suốt ngày. Tôi không làm được gì cả với bé », Vô thức của bà đã có mặt trong tất cả ba mệnh đề đơn sơ và vắn gọn ấy. Bà tưởng rằng : mỗi điều bà trình bày cho bác sĩ khám bệnh đều là những tin tức rõ ràng và chính xác.
Thực ra, nếu bác sĩ có những kiến thức chuyên môn về Phân Tâm Học, với những câu hỏi, ông sẽ có khả năng gọi Vô Thức của bà mẹ và đem Vô Thức ấy ra vùng ánh sáng của Ý Thức.
- Câu hỏi thứ nhất : « Bà vừa trình bày cho tôi nghe : đứa con của bà rất khó tính, có phải vậy không ? Bà làm ơn nói thêm cho tôi biết rõ hơn : cháu khó tính bằng cách nào, cháu làm gì cụ thể ? ». Ở dưới những lời khẳng định của bà mẹ, bác sĩ đã đào bới, yêu cầu bà tìm ra những tin tức cụ thể, những sự kiện khách quan. Trên đó, bà đã thiết lập những giả thuyết và rút ra những kết luận.
- Câu hỏi thứ hai : « Như bà vừa nói ra, đứa con của bà khóc la và quấy rầy bà suốt ngày. Suốt ngày có phải là suốt 24 tiếng đồng hồ, không bao giờ dừng lại ? ». Với câu hỏi nầy, bác sĩ đã gọi ra ánh sáng của Ý Thức, một cơ chế tâm lý mang tên là xu thế phóng đại, cường điệu. Theo lối nói bình dân, đó là khuynh hướng « có bé xé ra to », hay là « vơ đũa cả nắm ».
- Câu hỏi thứ ba : « Như bà đã trình bày, bà không làm được gì cả với đứa con của bà. Nhưng thực ra bà muốn làm gì với cháu, mà bà không làm được ? ». Câu hỏi nầy nhằm giúp bà mẹ định nghĩa một cách chính xác, những động từ mà bà thường dùng. Hẳn thực, khi bà mẹ có một mục tiêu rõ rệt, ngang tầm phát triển của đứa con, bà sẽ có khả năng thực hiện và thành tựu mục tiêu ấy.
Một vài ví dụ đơn sơ và dễ hiểu như vậy cho chúng ta thấy được một phần nào : Vô Thức không phải là một « bí mật cao siêu, mầu nhiệm ». Trái lại, Vô Thức có mặt ở trước và bao quanh chúng ta. Nhưng chúng ta không thấy, không nghe, không cảm, vì Vô Thức đã trở thành tập quán, xương da, máu thịt của chúng ta.
Nhằm đánh thức và giúp chúng ta sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác, trong những quan hệ trao đổi hằng ngày, tác giả A. ROBBINS kêu mời mỗi người hãy nhìn năm ngón tay của mình, đặt ra những câu hỏi, trước khi trình bày, phát biểu một ý kiến (5).
Kỹ thuật năm ngón tay trái
- Một, ngón tay út phía bên trái, nhìn từ phía lưng, trước khi chúng ta sắp sử dụng những từ như : luôn luôn, không bao giờ, tất cả, mỗi...chúng ta đặt ra cho mình câu hỏi : Luôn luôn không có ngoại lệ à? Tất cả không thiếu một ai cả sao?
- Hai, ngón tay đeo nhẫn. Các từ : phải, cần, không được, không nên, không thể. Câu hỏi : Ai đã đưa ra mệnh lệnh và qui luật ấy ? Cái gì bắt buộc ? Điều gì cản trở như vậy ? Người nào cấm đoán ?
- Ba, ngón tay giữa. Các động từ hành động như làm, thương yêu, hợp tác, đóng góp, thực hiện...Cách đặt câu hỏi : Hợp tác...bằng những cách làm cụ thể và khách quan nào ?
- Bốn, ngón tay trỏ. Các danh từ tổng quát và trừu tượng như : người Việt Nam, hòa bình, tự do, hạnh phúc. Cách đặt câu hỏi : Người Việt Nam cụ thể là ai, tên gì, ở đâu ? Những động tác cụ thể, để thể hiện Hòa bình là gì ? Những yếu tố cụ thể cần thành đạt, để có được Tự do là những gì ?
- Năm, ngón tay cái. Những cách nói về số lượng hay là so sánh, như quá ít, quá nhiều, tốt hơn, quá xấu...Cách đặt câu hỏi : So sánh với ai, cái gì để quyết đoán như vậy ? Hơn là hơn ai ? Thua là thua về phương diện nào ? Dựa vào những chuẩn mực nào để so sánh như vậy ?


Sào huyệt thứ hai của Vô Thức : Đúng-Sai, Có lý-Vô lý, Tốt-Xấu.

Khi khẳng định về ba cách đánh giá vừa được nêu ra, chúng ta đã ở vào giai đọan thứ ba của một tiến trình tư duy. Đành rằng người nghe chúng ta, sẽ không thể nào hay biết gì về hai giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Nhưng chính người phát biểu - là chúng ta - có ý thức đến hai giai đoạn kia hay không ? Bao nhiêu ngộ nhận, hiểu lầm và xung đột giữa chúng ta với người khác, đều bắt nguồn từ « những con đường tắt », hay là « những bước nhảy vọt » ấy.
Trở lại với tiến trình của Tư Duy - còn được gọi là những nấc thang của Suy Tư và Lý Luận - chúng ta cần phân biệt ba giai đoạn thiết yếu :
- Giai đoạn một : Lắng nghe, ghi nhận và tiếp thu những tin tức khách quan và cụ thể, do môi trường sinh hoạt cung ứng. Tôi thấy gì, tôi nghe gì, với đôi mắt và hai lỗ tai của tôi, chứ không phải do dư luận đồn thổi ?
- Giai đoạn hai : Từ những dữ kiện ấy, tôi đề xuất giả thuyết nào ? Tôi « thuyên giải làm sao », nghĩa là quyết định và chọn lựa ý nghĩa nào, giữa bao nhiêu con đường xuôi ngược khác nhau ?
- Giai đoạn ba : sau khi rà soát lại những tin tức và trắc nghiệm, kiểm chứng lại giả thuyết, tôi rút ra kết luận như thế nào ? Và với kết luận ấy, tôi nói gì, làm gì, cảm gì với con người xương thịt, cụ thể đang ở trước mặt tôi ?

Mặc dù với ba bước đi lên, được thực hiện và cân nhắc, một cách có hệ thống và khoa học, tôi vẫn còn phải thú nhận, với tất cả lòng thành tâm và khiêm tốn, rằng : kết luận cuối cùng của tôi chỉ là một lối nhìn CHỦ QUAN của tôi mà thôi. Một người khác, trong vai trò và vị trí hiện tại, cũng như với những điều kiện giáo dục và kinh nghiệm về cuộc sống... có thể có những tin tức hoàn toàn khác biệt. Từ đó, người ấy sẽ có một lối thuyên giải khác. Và kết luận cuối cùng của người ấy sẽ phản ảnh lợi ích riêng tư và quá trình học vấn của người ấy.
Dựa vào đâu, tôi khẳng định rằng : Tôi đúng, tôi có lý, tôi có toàn quyền về sự thật ? Phải chăng chỉ vì tôi đang ở dưới một « chế độ Vô Thức » ?
Để cùng nhau và giúp nhau dấn bước vào con đường Ý Thức, mỗi người trong chúng ta hãy nhìn nhận và đón nhận ba loại câu chuyện khác nhau :
- Câu chuyện « Ngôi Thứ Nhất » của tôi,
- Câu chuyện « Ngôi Thứ Hai » của người khác, đang nói chuyện và tiếp xúc với tôi,
- Câu chuyện « Ngôi Thứ Ba » của một bà mẹ đang « cưu mang cả hai chúng ta, trong cùng một bọc trứng », hay là của một người cha « có một con tim và bộ óc bao la như Đại Dương », đón nhận mọi dòng sông và con nước, từ bốn phương chảy về. Họa may, lúc bấy giờ, chân lý sẽ mượn con đường tình thương, đề mặc khải mình.
Thái độ duy nhất của những người đang nói chuyện với nhau là « cùng với nhau », AND stance. Trong tiếng Anh khoa học ngày nay, có những từ rất nhỏ, rất tầm thường, rất quen thuộc, ở đầu môi lưỡi của mọi người, thậm chí nơi một trẻ em vừa mới bập bẹ học nói. Nhưng giá trị của nó rất lớn lao, kỳ vĩ, về mặt làm người. AND có nghĩa là VÀ. Tôi chuyển dịch là « cùng với ». Trên con đường Ý Thức, cùng với bạn, tôi học lại một lối nhìn. Cùng với bạn, tôi nghe lại với vành tai xôn xao. Cùng với bạn, tim tôi phập phòng, trăn trở, thổn thức và đập nhịp, để nuôi sống mọi tế bào trong cơ thể. Để làm mới lại những quan hệ nối kết chúng ta, trong cùng một Trời Biển, trong cùng một Nước Non. Không có bạn, tôi mất đi một nửa con đường Ý Thức của tôi. Cho nên tôi lại phải đắm chìm trong bóng đêm mịt mù của Vô Thức triền miên.


Sào huyệt thứ ba của VÔ THỨC : Ý Định của bạn và của tôi.

Mặc dù không có dịp được trang bị về Phân Tâm Học, thi sĩ Xuân Diệu đã có những lối nhìn xuất sắc về Vô Thức (6) :

« Ai đem phân chất một mùi hương,
« Hay bản cầm ca, tôi chỉ thương,
« Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc,
« Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.
« Làm sao cắt nghĩa được Tình Yêu ?
« Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
« Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
« Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu ... »
Hẳn thực, phải chăng trước khi yêu ai, tôi đã biết ngồi lại, cân nhắc, đánh giá một cách bình tĩnh và sáng suốt, để rồi sau đó tôi có thể một lần dứt khoát chọn lựa và quyết định, mà không sợ mình đã sai lầm ?
Theo lối nhìn của Tâm lý đương đại, trong địa hạt tình yêu, cũng như trong bao nhiêu sinh hoạt khác, không bao giờ chúng ta có khả năng quyết dịnh , một cách dứt khoát, trong chỉ một lần. Trái lại, để cho tình yêu đâm chồi, nảy lộc, nở hoa và kết trái, ngày ngày chúng ta phải chọn lựa lại, quyết định lại. Từ xưa, tổ tiên và cha ông chúng ta đã nhắn nhủ : Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân. Mỗi ngày, đổi mới. Mỗi ngày, đổi mới lại. Càng ngày càng đổi mới. Bằng không, chúng ta chỉ là « hồn ma phiêu bạt », sống cũng không ra sống. Chết cũng không chết hẳn. Cho nên, chúng ta chỉ là gánh nặng, cho nhiều người cùng chung sống.

Khi nói về ý định -của bạn, của tôi hay là của một ai khác- chúng ta cũng cần có một lối nhìn sáng suốt và thức tỉnh như vậy :
- Thứ nhất, ý định phát xuất từ nhiều tầng sâu của nội tâm. Trong đó, vừa có lối nhìn của tư duy soi sáng hướng dẫn, vừa có những xúc động đang động viên và thúc đẩy tôi.
- Thứ hai, duy chỉ tôi mới có thể biết ý định của tôi. Tuy nhiên, cái biết ấy rất hạn chế. Còn bao nhiêu yếu tố khác đang thoát ra ngoài vòng ý thức của tôi.
- Thứ ba, những ai khác, ngoài tôi ra, không thể nào biết ý định của tôi, ngoại trừ sau khi tôi bộc lộ mình cho người ấy. Trường hợp họ đinh ninh rằng họ biết, là vì họ đang bói đoán hay là dự tưởng mà thôi. Đó không phải là cái biết phát xuất từ suy luận, bởi vì họ không thể nào có những dữ kiện khách quan, để xây dựng tiến trình tư duy của họ.
Không có những kiến thức cơ bản và rõ ràng về ý định như vậy, chúng ta dễ áp đặt cho kẻ khác, những ý định không có mặt trong nội tâm của người ấy. Chúng ta chỉ « phóng ngoại » những gì đang nung nấu, trong cõi lòng của chúng ta mà thôi. Khi phóng ngoại như vậy, tôi đang chiếu lên khuôn mặt của kẻ khác, một cuốn phim xoay vần trong nội tâm của tôi.
Ngược lại, khi kẻ khác áp đặt cho tôi một ý định, điều quan trọng, khả dĩ tạo nên những quan hệ xung đột, hận thù giữa tôi và người ấy, không phải chỉ là ý định mà thôi. Nhưng là vết thương lòng lở lói, do thái độ của người ấy tạo nên, trong lảnh vực xúc động và tình cảm của tôi. Chính vì lý do đó, mặc dù người ấy đã rút lại lời nói của họ hay là cải chính tin tức đã đưa ra, vết thương lòng của tôi vẫn cứ rướm máu, nhức nhối. Hận thù vẫn tiếp tục. Xung đột vẫn kéo dài.
Để thoa dịu và hàn gắn vết thương trong tâm hồn của một người, như tôi sẽ nói tới, trong những đoạn sau này, là NHÌN NHẬN và ĐÓN NHẬN vết thương xúc động của người ấy. Chỉ biết chừng đó, chúng ta đã bắt đầu có khả năng nâng cao chất lượng làm người, trong bản thân của chúng ta và trong đời sống của nhiều người khác.
Thêm vào đó, chúng ta nên nhớ rằng : vết thương vừa có mặt, không những trong người bị áp đặt một ý định. Vết thương lòng cũng có mặt trong người áp đặt ý định cho người khác, một cách hồ đồ. Sở dĩ họ làm như vậy, là vì họ đang bị Vô Thức khống chế. Họ đang lo sợ. Họ đang khổ đau. Họ cảm thấy mình không được yêu thương và chú trọng, đúng như lòng mong đợi. Cho nên, khi chúng ta bị áp đặt từ ngoài một ý định không có căn cứ, thay vì chối từ, đính chính với một thái độ tự vệ hay là biện minh, chúng ta bắt đầu hướng đến niềm đau của người ấy :
« Bạn vừa nói rằng tôi có ý định phá hoại dự án mà bạn đã tốn rất nhiều công phu, để suy nghĩ và xây dựng. Như vậy là bạn đang khổ đau rất nhiều, vì cảm thấy mình không những không được nâng đở, mà còn bị bạn bè cản trở. Bạn có thể chia sẻ thêm cho tôi hiểu : bạn đang khổ tâm đến độ nào. Sau đó, tôi xin trình bày cặn kẻ ý kiến và thái độ của tôi, đối với bạn... ».
Hẳn thực, khi một người đang đau khổ, vì bất cứ lý do gì, chất lượng làm người gọi mời chúng ta hãy tìm cách băng bó vết thương lòng còn lở lói của người ấy, trước khi phân trần hoặc giải thích thái độ và tác phong chân thực của mình.


Sào huyệt thứ bốn của Vô Thức : vấn đề ĐỒNG TRÁCH NHIỆM của mỗi người

Trên một chuyến tàu làm người, mọi người cùng có mặt với nhau. Họ mang nhiều tên tuổi khác nhau như : Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mỵ Nương hay là Vua Hùng Thứ Mười Tám, và bao nhiêu người khác...Nhưng tất cả đều liên đới với nhau. Như trên đây tôi đã trình bày cặn kẻ, mỗi người -bất kỳ họ là ai, lớn nhỏ, nam nữ, già trẻ...- đều đóng ba vai trò cùng một lúc :
- Thứ nhất là vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm truyền thừa cho người đến sau một gia tài phong phú.
- Thứ hai là vai trò làm người đồng hành và chia sẻ, họp nhau lại thành « một trăm con mắt » để thấy, « một trăm cánh tay » để làm.
- Thứ ba là vai trò làm một đứa con hạnh phúc, « nuôi lại Tổ Tiên và Cha Mẹ của mình ». Những điều mà quí vị đả bắt đầu, hôm nay tôi tiếp nối. Những điều mà quí vị đã thành đạt, hôm nay tôi mở rộng chân trời. Những điều mà quí vị đã thất bại, hôm nay tôi « rút kinh nghiệm », sáng tạo thêm những con đường cao cả và bao la, thay thế vào những con đường lầy lội.
Thay vì bước tới và đi lên cùng với nhau như vậy, chúng ta đã và đang lặp đi lặp lại những con đường mòn xung đột và tranh chấp giữa hai nhân vật « Sơn Tinh và Thủy Tinh ». Tại sao chỉ hai người ấy mới « có tiếng nói », trong vòng bốn nghìn năm văn hiến ? Tại sao duy hai người ấy mới có độc quyền « chỉ đạo » con tim và bộ óc của chín mươi tám anh chị em khác ?
Khi chúng ta tố cáo, kết tội, phê phán... chúng ta đưa tay chỉ phe bên kia và qui chiếu về phía họ mọi trách nhiệm. Còn chúng ta, chúng ta từ khước trách nhiệm. Chúng ta khoác cho mình vai trò « làm nạn nhân » hay là « ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài », và rình rập chĩa súng bắn lén sau lưng họ.
Khi chúng ta lưu tâm đến công việc lên án, kết tội...chúng ta chỉ biết NHÌN QUÁ KHỨ , nhìn LẦM LỖI. Và chúng ta quên rằng : cuộc sống làm bằng hiện tại và tương lai, Yêu Thương và Hiểu Biết, Thứ Tha và Bao Dung.
Trái lại, khi chúng ta biết cùng nhau ngồi lại, rút ra những bài học, chắt lọc những kinh nghiệm, lỗi lầm lúc bấy giờ sẽ trở thành một bàn đạp, một điểm tựa quí hóa, để chúng ta có khả năng dời núi, lấp sông, xây lại những chiếc cầu « đồng cảm ».
Thêm vào đó, mấy ai trong chúng ta đang sống trong ánh sáng của Ý Thức, để can đảm và sáng suốt chấp nhận rằng : Khi có một lỗi lầm xảy ra bất kỳ ở nơi đâu, do bất kỳ ai khởi xướng, chính tôi đã GÓP PHẦN mình trong đó, không nhiều thì ít. Sở dĩ như vậy, một đàng vì trong bao nhiêu năm, tôi đã THINH LẶNG ĐỒNG LÕA. Đàng khác, vì tôi đã la lối ỏm tỏi, chống đối rùm beng bằng mồm miệng. Đang khi đó, tôi không bao giờ tra tay vào một việc làm cụ thể và hữu hiệu.
Càng chống đối bằng ngôn từ thuần đơn, tôi chỉ quảng cáo và tạo thêm cơ hội thuận lợi, để cho lỗi lầm càng ngày càng lan tràn và phát triển, như vết dầu loang.
Nhằm chuyển hóa một vấn đề hay là một lỗi lầm, Phân Tâm Học đề nghị cho chúng ta những đường hướng hành động thiết thực sau đây :
- Thứ nhất, ý thức và gây ý thức về tiến trình phát sinh của vấn đề, khi vấn đề đang còn ở trong giai đoạn trứng nước. Trái lại, kêu gào giải quyết vấn đề, tổ chức những cuộc đấu tranh bằng mồm miệng, khi vấn đề đã lên tới giai đoạn cực thịnh, chúng ta chỉ làm công việc chữa bệnh dịch hạch, bằng cách « thoa dầu cù là » ngoài lớp da mà thôi.
- Thứ hai, ở bên dưới mổi vấn đề to hay nhỏ, luôn luôn có một niềm đau, một vết thuơng lòng rướm máu, một nỗi lo sợ sâu xa chưa được ai băng bó. Nếu chúng ta muốn đi nhanh, dùng bạo động, chiến tranh, hận thù để giải quyết, có lẽ chúng ta dập tắt được một ngọn lửa. Nhưng đám cháy sẽ lan tràn, tiêu hủy cả một rừng già, một giang sơn gấm vóc.
- Thứ ba, trong cuộc sống làm người, để giải quyết bất kỳ một vấn đề gì, chúng ta không thể không ngồi lại với chính những người trong cuộc, thậm chí đó là một trẻ em. Ngồi lại, lắng nghe, tôn trọng quyền phát biểu của người ấy. Quyền ấy cũng là quyền làm người.
- Sau hết, truớc khi đi vào nội dung cụ thể của vấn đề tranh chấp, xung đột, hãy nhìn nhận và đón nhận vô điều kiện những xúc động của người đối diện, như lo sợ, tức giận, cảm nghiệm bị đàn áp, bốc lột...Đó là những vết thương lòng rướm máu đang khống chế và làm băng hoại chất lượng làm người của họ. Hãy mang lại cho họ chất lượng làm người, tràn đầy và thấm nhuần trong tấm lòng của chúng ta, họ sẽ dần dần trở nên người anh chị em thực sự và thân thương.
Bốn cách làm ấy đã có mặt trong tác phong « làm Bản Ngã trợ tá » của một bà mẹ, xuyên qua mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi với đứa con, vừa đi ra khỏi cung lòng ấm cúng của mình. Cuống rốn nối kết hai mẹ con đã được cắt lìa. Nhưng một cuống rốn vô hình khác làm bằng Tình Thương, Hiểu Biết và Tinh Thần Trách Nhiệm đang được sáng tạo và thành hình mỗi ngày. Nhờ vào đó, đứa con có gan mạo hiểm đi vào lòng cuộc đời, để trở thành người.


Sào huyệt thứ năm của VÔ THỨC : Đời sống Xúc Động

Gần như trong tất cả mọi cuốn sách được tôi viết ra từ trước cho tới nay, luôn luôn tôi đã dành ra ít nhất một chương, để trình bày những khám phá và nghiên cứu của tôi, về đời sống xúc động. Vừa hoàn tất một tác phẩm, tôi đã nhận thấy ngay lập tức nhiều trọng điểm chưa được « tát cạn ». Bao nhiêu tin tức còn nóng hổi, vừa xuất hiện trên các diễn đàn văn hóa...Hẳn thực, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Phân Tâm Học đã ấn mạnh vai trò của xúc động trong toàn diện cuộc sống của con người. Tuy nhiên, trong vòng 20 năm gần đây, bao nhiêu phương pháp tiếp cận, thuộc nhiều lảnh vực khác nhau, đã ra đời, như khoa học về não bộ, phương pháp « Tạo Trung Gian » trong khoa học xã hội, Thuyết Cấu Trúc trong địa hạt Triết lý...đã cung ứng nhiều nguồn ánh sáng rất thiết thực và độc đáo. Cho nên, tôi không thể không mang đến cho giới trẻ, nhất là ở Quê Nhà, một vài tin tức về hướng đi của Nhân Loại, trong thời đại Nghìn Năm Thứ ba.
Hôm nay, khi nói đến những xung đột giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, làm sao tôi không nhấn mạnh lại, và nhắc nhở cho đàn em của tôi, rằng : Xúc động là sào huyệt lớn lao nhất của VÔ THỨC. Nhu cầu của con người nằm ở đó. Nhưng đồng thời, động cơ thúc đẩy chúng ta đứng dậy, bước tới, tìm đến với những giá trị lớn lao và cơ bản, trong cuộc sống làm người, cũng bắt nguồn từ đó. Nếu Sơn Tinh và Thủy Tinh biết ngồi lại với nhau từ buổi đầu, chia sẻ cho nhau về những xúc động của mình, nhìn nhận và đón nhận nhau, họ đã mở ra cho các thế hệ về sau, những chân trời, những kinh nghiệm, những bài học làm người quí hóa.

Bài học thứ nhất cần được chúng ta ghi nhận là vấn đề ý thức và diễn tả những xúc động vừa đang hiện hình trong nội tâm.
Nếu không được mang ra ánh sáng của ý thức, chúng nó sẽ tìm cách NGỤY TRANG, để trốn thoát ra ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Chiếc áo ngụy trang thứ nhất là Tư Tưởng Nhị Nguyên trong những lời tố cáo, phê phán, qui lỗi : Tao hơn mày thua.
- Chiếc áo ngụy trang thứ hai là xu thế ước đoán hay là khoác cho kẻ khác những ý định tiêu cực như phá hoại, gian lận, phản bội... : Mày cố ý khinh thường tao.
- Chiếc áo ngụy trang thứ ba là tập quán chụp mũ, gắn nhãn hiệu, bằng những danh hiệu rất mơ hồ và tổng quát : Mày là đồ cù lần.
- Chiếc áo ngụy trang thứ bốn là bộ mặt mô phạm, dạy đời : đưa ra những lời khuyên, đề nghị cho kẻ khác những cách giải quyết, theo ý chủ quan của mình, hay là trấn an một cách thông lệ : Thôi, can đảm lên chứ. Con trai mà khóc, người ta sẽ cười chết.

Bài học thứ hai cần ghi nhận là phương thức đối ứng với những xúc động nơi người khác.
Khi nhận thấy có người đang bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, những xúc động của mình, điều chúng ta cần làm trước tiên là nhìn nhận và đón nhận, có nghĩa là coi trọng những cảm nghiệm của họ. Coi trọng như vậy không có nghĩa là đồng ý với cách phản ứng của họ. Nhìn nhận như vậy là « gọi tên » xúc động đang thành hình, xuất hiện hay là còn ẩn lén trong nội tâm của người đang tiếp xúc với chúng ta :
« Qua lời bạn vừa nói ra... qua hành vi của bạn mà tôi ghi nhận... hình như bạn đang bực tức và lo buồn... ».
Chúng ta có thể nêu lên hai hay ba tên gọi khác nhau. Thông thường, những xúc động không bao giờ xuất hiện một mình. Hai hay ba phản ứng có thể dính liền và cùng đi với nhau. Theo tác giả G. JAMPOLSKY (7), lo sợ luôn luôn có mặt, mỗi lần chúng ta tố cáo, chụp mũ hay là có tác phong mất bình tĩnh, khi bộc lộ một xúc động đang trấn áp nội tâm. Và trước nỗi niềm lo sợ của một người, chỉ có tình yêu thương là câu trả lời thích hợp và đứng đắn. Thái độ « Nhìn nhận » phát xuất từ lòng yêu thương chân thành ấy.
Nói tóm lại, nhìn nhận xúc động của một người, là khẳng định với người ấy, một cách rõ ràng và chân thực, ba thái độ làm người của chúng ta :
- Thứ nhất, tôi đang lắng nghe bạn, với trọn con người của tôi,
- Thứ hai, tôi muốn tìm hiểu bạn, đúng như bạn hiểu chính mình,
- Thứ ba, tôi tôn trọng và ghi nhận xúc động đang hiện hình trong bạn.
Khi người khác không được chúng ta nhìn nhận, một cách nghiêm minh và cẩn trọng như vậy, những quan hệ giữa họ và chúng ta sẽ từ từ suy vong và tàn lụi. Trong những trường hợp trầm trọng hơn nữa, bao nhiêu nguyên nhân gây ra xung đột, hận thù, chia rẽ đều len lỏi, nằm vùng ở đó.

Bài học thứ ba cần ghi nhận : Thương lượng, để diễn tả và chuyển hóa Xúc Động
Mỗi lần nói đến « chuyển hóa Xúc động », chúng ta nói đến hai động tác cần thực hiện : Một là ý thức về những hiện tượng khá phức tạp đang xuất phát trong nội tâm. Hai là làm chủ bản thân và đời sống của mình. Có người sử dụng lối nói : quản lý, chuyển dịch từ tiếng Anh « To manage, Managing, Management ». Phần tôi, tôi sở hữu hóa lối nói của Kinh Dịch « chuyển hóa hay là hóa giải », nghĩa là thay vào, khoác vào một bộ mặt, một hình thức thích ứng hơn, hữu hiệu hơn, có chất lượng làm người hơn. Tôi xin đan cử một ví dụ : Tức giận là quyền làm người của mỗi người cần được tôn trọng và cho phép. Nhưng bộc lộ tức giận bằng những tác phong bạo động, la mắng, nạt nộ, trừng phạt, đánh đập... không thuộc về chất lượng làm người. Trong quan hệ giữa người với người, chúng ta cần sáng tạo những hình thức thích hợp hơn.
Theo ý kiến của Tác giả Douglas STONE, để có thể chuyển hóa một xúc động, chúng ta bắt đầu bằng động tác THƯƠNG LƯỢNG (8).
Hẳn thực, giữa Tư Duy và Xúc Động, có những quan hệ nhân quả qua lại hai chiều. Xúc động bắt nguồn từ một lối nhìn, một cách thuyên giải. Nhưng khi xúc động đã có mặt trong nội tâm, nhất là những xúc động quá mãnh liệt và tràn ngập, xúc động lúc bấy giờ sẽ trở lại khống chế tư duy. Trong tình huống nầy, tư duy trở thành con múa rối, bị xúc động lèo lái, chỉ huy, trấn áp. Nói khác đi, tư duy không còn hoạt động dưới ánh sáng của Ý Thức. Tư duy bị khống chế, tê liệt, trong chế độ Vô Thức bắt nguồn từ xúc động không được nhìn nhận và đón nhận.
Thương lượng là trở lại với ba nấc thang của Tư Duy, mà tôi đã trình bày truớc đây :
- Nấc thang thứ nhất : tôi đang thấy gì, tôi đang nghe gì, một cách cụ thể và khách quan. Sự kiện được ghi nhận là gì ?
- Nấc thang thứ hai : tôi thuyên giải thế nào. Phía bên kia, sau khi nghe tôi, người đối diện sẽ thuyên giải theo chiều hướng nào ? Khi có những khác biệt giữa hai lối nhìn, tôi sẽ đề xuất những quyết định bổ túc thế nào, cho hợp tình hợp lý ?
- Sau khi thương lương như vậy, nghĩa là lắng nghe mình và lắng nghe người khác, dưới ánh sáng chan hòa của ý thức, công việc còn lại là diễn tả chất lượng làm người, diễn tả một tấm lòng ĐỒNG CẢM của mình.
Sau khi lắng nghe, trao đổi, tìm hiểu...cả người đối diện cùng với tôi đi đến kết luận nào ? Hay là tôi vẫn tiếp tục tố cáo ? Vẫn khư khư tin tưởng như đinh đóng là người kia cố tình chèn ép tôi ? Đối với tôi, lỗi vẫn hoàn toàn thuộc về phe bên kia ?
Sơ đồ diễn tả đã được tôi giới thiệu và trình bày trong cuốn sách « Đồng Cảm để Đồng Hành » (9) :
- Bước thứ nhất : Khi tôi thấy... tôi nghe...
- Bước thứ hai : Tôi cảm...
- Bước thứ ba : Xuyên qua xúc động ấy, tôi cần ...
- Bước thứ bốn : Vậy bây giờ, tôi xin bạn hãy ...
Và sau khi diễn tả lòng mình, chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của kẻ khác. Khi đón nhận niềm đau của anh chị em đồng bào, chúng ta sẽ giật mình tĩnh thức, vì thấy rằng : niềm đau của chúng ta chỉ là hạt nước, trong một đại dương bao la.


Bài Chia Sẻ số Ba : VÔ THỨC là một thách đố lớn lao

Đáng lý khi nói đến những sào huyệt của Vô Thức, tôi còn phải ghi nhận thêm hai loại khác, cũng quan trọng và lớn lao như năm loại kia. Đó là Bản sắc làm người và Quan hệ tiếp xúc.Tuy nhiên, xuyên qua chương nầy, vấn đề về Bản sắc làm người sẽ được đề cập, trong những đường nét chính yếu. Và một bài chia sẻ sau này sẽ khảo sát vấn đề « quan hệ giữa người với người ».
Khi bàn đến Bản sắc làm người, phần nhiều các tác giả đề nghị nêu lên câu hỏi cơ bản: Tôi là ai, trong lòng cuộc đời ?
Robert DILTS (10) hướng dẫn cách trả lời của chúng ta, bằng những câu hỏi khác ăn khớp vào nhau và soi sáng lẫn nhau.
- Câu hỏi thứ nhất : Cùng đích mà tôi nhắm tới, trong cuộc đời là gì ? (What for ?)
- Câu hỏi thứ hai : Cùng đích ấy bao gồm những giá trị nào ? (Why ?)
- Câu hỏi thứ ba : Những giá trị bao la, diệu vợi ấy trở nên hiện thực, trong lòng cuộc sống làm người, bằng cách làm nào ? Chương trình hành động ấy nhắm tới những mục tiêu cụ thể nào ? (HOW ?)
- Câu hỏi thứ bốn : Trong chương trình ấy, động tác cụ thể, mà tôi thực hiện, ngày hôm nay, là điều nào ? (What next ?)
- Câu hỏi thứ năm : Tôi làm điều ấy ở đâu, với ai, trong môi trường nào ? (Where, with whom... ?)
Với phương pháp « kiến tha lâu đầy tổ » hay là « cháo nóng húp quanh », do Tổ Tiên chúng ta đề xướng, tôi biết rằng : tôi chỉ làm một động tác rất nhỏ mọn, thuộc tầm tay non yếu của tôi, ngày hôm nay. Còn đám mây đen to tướng kia, đang bao phủ bầu trời của Bà Âu Cơ, sẽ từ từ tan biến đi, khi bình minh trở lại ngày mai. Đằng sau khúc sông eo hẹp, mà tôi đang cố tìm đường lách ra, giữa bao nhiêu lau sậy, Biển Cả của Lạc Long Quân đang chờ đợi tôi.
Hẳn thực, như Phần Hai vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ, Vô Thức bủa vây chằng chịt, trên mỗi đường đi và lối thoát của chúng ta. Và chỗ nào có Vô Thức, chỗ ấy khổ đau cũng có mặt tràn trề, man mác. Chỗ nào có Vô Thức, chỗ ấy xung đột, chiến tranh, hận thù là hiểm họa có thể bùng nổ, trong từng giây, từng phút. Và tôi còn muốn thêm, một cách cương quyết rằng : Chỗ nào có con người chung sống với nhau, chỗ ấy thế nào cũng có những thế hệ Sơn Tinh và Thủy Tinh. Không những ở Việt Nam. Nhưng trên mỗi xứ sở của Hoàn Cầu.
Tuy nhiên , tôi không dừng lại, bế tắc và bất động, trước nhận xét hoàn toàn khách quan và hiện thực ấy. Tôi không bi quan, yếm thế. Trước mỗi vấn đề, mà tôi phân tích, tôi luôn luôn trình bày ít nhất một hoặc hai cánh cửa mở rộng. Trước mỗi bóng đen của Vô Thức bao trùm, khống chế, trấn ngự... luôn luôn có một tia sáng Ý Thức kêu mời, khuyến khích. Ai lắng mà không nghe ? Ai nhìn mà không thấy ? Ai tìm học, mà không có một vị thầy hay cô giáo đợi họ đến gõ cửa. Vấn đề chính yếu là chúng ta có can đảm đứng dậy, đi ra vùng ánh sáng hay không ?
Qua bao nhiêu nhận xét, mà tôi đã trình bày và giới thiệu, trong suốt bài chia sẻ này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều :

Cuộc sống là một thách đố.
Vô thức là một thách đố.
Khổ đau là một thách đố.
Trong mỗi thách đố, cơ may để tiến lên làm người luôn luôn có mặt, một cách tràn trề và lai láng.


Nhưng vực thẳm cũng ở sát bên cạnh, tạo nguy cơ, để chúng ta có thể ngụp lặn và đắm chìm. Cuộc sống luôn luôn là một chọn lựa. Và chọn lựa khó khăn nhất là thay đổi lối nhìn về mình, trong chính nội tâm của chúng ta.
Cơ may lớn lao và chắc chắn nhất là người anh chị em đồng bào cùng đi, cùng bước với chúng ta. Khi họ rơi, chúng ta nâng đỡ. Khi chúng ta ngã, họ đưa tay kéo chúng ta lên. Khi đèn nhà tôi tắt, tôi qua thắp lại, bên ngôi nhà láng giềng. Khi mặt tôi lọ lem, họ nói cho tôi hay biết: tôi đang lọ lem.
Nguy cơ, trái lại, xảy ra, khi tôi khước từ người anh chị em. Họ đưa tay, tôi không nắm bắt. Họ kêu cứu, tôi không trả lời. Họ muốn sống, tôi mang tới bom đạn và gươm giáo. Sống cô đơn, cô độc, tôi mất khả năng thông hiểu và sử dụng ngôn ngữ họ thường dùng.
Nỗi buồn lớn lao của tôi, mỗi lần nghe lại câu chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh, không phải là mối tình tranh chấp của cả hai người đối với Mỵ Nương. Trên Đất Nước Lạc Việt, có hằng trăm, hằng ngàn, hằng triệu Mỵ Nương, còn duyên dáng, mặn mà hơn Nàng Công Chúa Mỵ Nương của Vua Hùng Thứ Mười Tám. Nhưng tôi buồn thấm thía, vì hai người đã một lần sát cạnh nhau, trong bào thai của mẹ. Nhưng bây giờ họ không có khả năng nói chuyện với nhau, bằng tiếng Mẹ Đẻ. Họ đã quên hẳn tiếng nói làm người. Họ trở thành người xa lạ, người Nước Ngoài. Không có Quê Hương, để nhớ đường trở về. Không có Quê Hương, để thương khóc, khi ra đi. Họ không còn có khả năng cùng nhau kết dệt một giấc mơ trọng đại, trong đó có Trời, có Biển, có Núi, có Sông. Có những cánh đồng cò bay thẳng cánh. Có những em bé ca hát líu lo, dẫn trâu về ràn. Có những cô thiếu nữ hò giả gạo, dưới ánh trăng đêm. Có những bà mẹ đang dắt tay con đi vào những hang động Huyền sử của Nước Non.
Buồn làm sao, vì cả Sơn Tinh và Thủy Tinh đã quên rằng họ là những người « luyện vàng », nghĩa là có khả năng hiến tặng một tấm lòng, mặc dù người Anh hay người Em của mình, trong một phút giây khổ đau, vô thức, mê muội... đã mở lời tố cáo, phê phán, nghi kỵ, hằn học, ganh đua, tranh giành phần hơn.
Trong mọi tình huống như vậy, phải chi hai người anh em ấy biết dừng lại « tri chỉ »…tìm cách học hỏi và tâm sự với nhau :

Em là Nước ? Anh xin làm Biển Cả,
Cùng theo Em đến những miền xa lạ,
Gieo vãi Tình Thương, Khung Trời mở rộng,
Hiến cho đời mầm non, trào nhựa sống.
Anh là Hoa ? Em xin làm Mảnh Đất,
Ấp ủ vun trồng, dịu dàng thân mật,
Dưới mỗi bước chân, hương trầm ngào ngạt,
Trên khắp Non Sông, nương đồng bát ngát.

Em là Trời ? Anh xin làm Không Khí,
Đón nhận Em trong Trái Tim bình dị,
Em an bình, tâm hồn Anh diệu vợi,
Em hạnh phúc, cuộc đời Anh phơi phới.

Anh là Mây ? Em nguyện làm Gió Mát,
Thổi ân tình vào lòng ai ngột ngạt,
Gieo thái hòa giữa vùng đất bạo động,
Nuôi chí khí, đánh thức người tuyệt võng.

Em là Núi ? Anh nguyện làm Rừng Xanh,
Động viên Em với tất cả lòng thành,
Hãy đứng thẳng, nhìn Mặt Trời tỏa rạng,
Tay vươn cao tiếp thu nguồn Ánh Sáng.

Anh là Đất ? Em hóa thân thành Nắng,
Sưởi ấm Anh bằng tấm lòng thầm lặng,
Suốt mùa đông, chết đi nuôi Anh sống,
Qua tiết xuân, gọi mời Anh hy vọng.

Nói và làm được như vậy là luyện mình thành vàng.
Hẳn thực, theo lối nhìn của văn hào Paulo CUELHO, LUYỆN VÀNG là giấc mơ kỳ vĩ, trong cuộc sống làm người. Khi « va chạm » vào chúng ta, người khác làm bằng với bất kỳ chất liệu gì như đồng, chì, sắt, thép… sẽ từ từ hóa thân thành vàng nguyên chất.
Tuy nhiên, để có khả năng luyện vàng như vậy, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết lừng danh của tác giả nầy, mang tên là « Người Luyện Vàng » (11), đã phải từ bỏ tất cả, trong cuộc đời hiện tại của mình, băng ngàn, leo núi, vượt trùng dương, đi vào Sa Mạc. Tại nơi đây, ông đã học lắng nghe tiếng gió, khám phá những dấu chân trên mặt cát muôn hình vạn trạng, thương lượng với những người sinh sống bằng chiến tranh. Thế nhưng, cũng nhờ sa mạc, ông đã biết yêu, đã gặp thầy, đã đào đất tìm được « Hòn Đá Khôn Ngoan », bên cạnh một Kim Tự Tháp. Với báu vật cuối cùng nầy, ông đã biết cách luyện vàng, để có tiền trở về quê hương của mình.
Tại một căn lều bỏ hoang, mà trước đây ông đã từng chiếm cứ và qua đêm với đàn cừu của mình, ông đã gặp lại giấc mơ ngày xưa của mình. Giấc mơ ấy, tại nơi đây, đã bảo ông ra đi học làm người luyện vàng. Hôm nay, sau hơn hai mươi năm, cũng giấc mơ ấy, tại nơi đây, bảo ông hãy đào bới những tầng sâu thăm thẳm, ở chỗ ông đã từng nằm trước đây và bây giờ đang nằm. Kỳ thực, một kho vàng lớn lao đang ở trong đôi tay của ông. Ông không ngờ, ông đã kinh qua hai mươi năm, học làm người luyện vàng. Bây giờ, tại căn lều mà ông đã sinh sống suốt cuộc đời thơ ấu, hai bàn tay ông đã đào bới được vàng.
Sau câu chuyện nầy, văn hào Paulo Cuelho đã kết luận : khi chúng ta cưu mang, ấp ủ và ngày ngày vỗ về một giấc mơ, tất cả trăng sao, gió mưa, đất trời và toàn thể vũ trụ...đều đóng góp phần năng động và giúp chúng ta thực hiện hoài bảo của mình.

Trở lại với tất cả những điều chúng ta đã khám phá, về những tầng sâu của nội tâm, chúng ta cũng có thể kết luận gống y hệt Paulo Cuelho : Nếu chúng ta cưu mang chất lượng làm nguời, trong đáy sâu thăm thẳm của tâm hồn, chính Vô Thức và bao nhiêu khổ đau, trong lòng cuộc đời, đều là chất liệu quí hóa giúp chúng ta thành người và có khả năng chuyển biến kẻ khác thành người cùng với chúng ta.

Tháng 8 năm 2008
CH-1694 ORSONNENS/Fr, Suisse
NGUYỄN Văn Thành


Bí chú :

1.- SPITZ R. - The first year of life -I.U.P N.York 1965
2.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Quan hệ Mẹ Con - Tình Người, Lausanne 2000.
3.- BRAZELTON T.B. - Points forts II - Stock, Paris 2000
4.- WINNICOTT D.W.- The family and Invidual development- Basic Books, New York 1965.
5.- ROBBINS R.- Unlimited Power : a black choice -Simon and Schuster, N.Y. 1997 p.251.
6.- 100 bài thơ tình - Nhà Xb Giáo dục, Hà Nội 1993, tr. 9.
7.- JAMPOLSKY G. - Aimer c'est se libérer de la peur - Ed. Soleil, Genève 1980
8.- STONE D. - Difficult Conversations -M-Joseph, London 1999.
9.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tình Người, Lausanne 2003.
10.- DILTS R. - Applications of NLP - Metapubl. CA 1983.
11.- CUELHO P. - L-Alchimiste - éd. ill. par Moebius 1995



Tác giả: Nguyễn Văn Thành