Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2008

19. Đừng Ngoái Lại Sau Lưng

Ai đã tra tay vào cày mà còn ngoái lại sau lưng
thì không xứng đáng với Nước Chúa.
Lc 9: 62
Nước Thiên Chúa là tình yêu. Vậy yêu có nghĩa là gì? Yêu có nghĩa là phải nhạy cảm với sự sống, với sự vật, với con người, để cảm nhận mọi sự vật và mọi người, không loại trừ một vật nào, không loại trừ một người nào. Bởi vì sự loại trừ chỉ xẩy đến khi người ta trở nên trơ lì và đóng kín cửa lòng. Ngay khi có một sự chai cứng, sự nhạy cảm sẽ chết. Bạn sẽ không gặp khó khăn nào để tìm cho ra các thí dụ về hình thức nhạy cảm này trong cuộc sống của bạn. Đã có bao giờ bạn dừng lại để vứt đi một cục đá hoặc nhặt lên một chiếc đinh trên đường kẻo có ai gặp điều không may hay không? Việc bạn chưa từng gặp mặt người sẽ được hưởng lợi từ hành vi của bạn không hệ gì, và bạn cũng chẳng nhận được một phần thưởng hoặc lời tán dương nào. Bạn làm điều đó chỉ vì một cảm thức nhân ái muốn thi ân mà thôi. Đã có bao giờ bạn cảm thấy đau nhói vì một cuộc hủy diệt điên cuồng tại miền nào đó trên thế giới, hoặc tại một khu rừng nào đó mà bạn không bao giờ nhìn thấy hoặc được hưởng lời nhờ nó hay không? Đã có bao giờ bạn chịu khó để giúp một người xa lạ tìm đường mà bạn chưa bao giờ quen biết và sẽ không bao giờ gặp lại con người ấy không? Bạn giúp chỉ vì lòng tốt mà bạn cảm thấy trong mình hay chưa? Trong những lần ấy và những trường hợp khác, tình yêu đã xuất hiện trong cuộc sống của bạn, minh chứng rằng nó vẫn ở trong bạn và chờ được giải thoát.
Làm sao bạn có thể sở hữu được thứ tình yêu này?
Bạn không cần làm gì cả, bởi vì nó đã hiện hữu trong bạn rồi. Tất cả những gì bạn phải làm là hãy tháo dỡ những vật cản bạn đã đặt ra gây ngăn trở cho sự nhạy cảm, và rồi tình yêu sẽ xuất hiện. Có hai vật cản ngăn trở sự nhạy cảm: thói yên trí và sự dính bén.
Yên trí - ngay khi có một sự yên trí, tức là bạn đã đến một kết luận về một con người, một hoàn cảnh, hoặc một vật gì đó. Giờ đây, bạn đã trở nên cứng nhắc và đã loại bỏ sự nhạy cảm của mình. Bạn thiên kiến và bạn nhìn thấy con người ấy bằng con mắt thiên kiến. Nói một cách khác, bạn sẽ không còn nhìn thấy con người ấy nữa. Làm sao bạn có thể nhạy cảm với một người mà thậm chí bạn cũng chưa nhìn thấy? Bạn chỉ cần nhớ đến một hai người quen biết, và liệt kê nhiều kết luận tích cực cũng như tiêu cực mà bạn đã có về họ, dựa trên những gì bạn quy gán cho họ. Ngay khi bạn nói người nọ người kia khôn ngoan hoặc tàn nhẫn, cố chấp hoặc dễ thương, hoặc thế nào đi nữa, thì bạn đã làm cho sự cảm nhận của bạn trở nên trơ lì, bạn trở nên thành kiến và không cảm nhận được con người ấy trong từng giây phút, tương tự như viên phi công hôm nay làm việc với bảng tin thời tiết của tuần lễ trước.
Bạn hãy nhìn thật kỹ vào những điều yên trí, bởi vì chỉ cần nhận ra chúng là những điều yên trí, là những kết luận, những thành kiến, chứ không phải là những phản ánh của thực tại, là chúng tự nhiên biến mất.
Dính bén - một dính bén được tạo nên như thế nào? Trước tiên là việc tiếp xúc với đối tượng đem lại cho bạn niềm sướng vui; một chiếc xe hơi, một món đồ hiện đại được quảng cáo hấp dẫn, một lời ca ngợi, một hành vi kết thân với một người. Sau đó, là ước vọng muốn bám vào đối tượng ấy, muốn lặp lại cảm giác sướng vui mà vật ấy hay người ấy đem đến cho bạn. Sau cùng là sự xác tín rằng bạn sẽ không thể hạnh phúc nếu thiếu người ấy hay vật ấy, bởi vì bạn đã coi niềm sướng vui mà đối tượng kia đem lại đồng nghĩa với hạnh phúc. Lúc này bạn đã có một sự dính bén đúng nghĩa. Và với đối tượng ấy, bạn đã loại trừ tất cả những gì khác, bạn vô cảm trước tất cả những gì không phải là đối tượng dính bén của mình. Mỗi khi từ giã đối tượng ấy, bạn để con tim của mình lại nơi đó, vì thế bạn không thể mang con tim mình đến nơi bạn sắp đến. Bản hòa tấu cuộc sống vẫn tiếp tục trong khi bạn thì ngoảnh lại, cứ đeo bám vào một vài trường canh của giai điệu, bịt tai lại và không nghe phần còn lại của bản hòa tấu, vì thế mới nẩy sinh chuyện không hài hòa và mâu thuẫn giữa những gì cuộc sống đang đem đến cho bạn và những gì bạn đang bám vào. Sau đó là tình trạng căng thẳng và ưu tư, tức là tình yêu và sự tự do đầy hân hoan được tình yêu đem đến đã chết. Bởi tình yêu và tự do chỉ được tìm thấy khi người ta thưởng thức từng nốt nhạc khi chúng vang lên, và rồi để chúng ra đi, để hành toàn cảm hưởng những nốt nhạc đến sau.
Làm cách nào người ta có thể dứt khoát với một dính bén? Người ta cố gắng làm điều này qua sự từ bỏ. Nhưng từ bỏ một số trường canh của bản nhạc, làm cho chúng phôi pha khỏi ý thức của ta lại tạo nên cũng một hình thức bạo lực, mâu thuẫn và vô cảm mà sự dính bén đã tạo ra. Một lần nữa, bạn lại làm cho mình ra cứng nhắc, trơ lì. Bí quyết ở đây là không từ bỏ gì cả, không bám vào gì cả, hãy yêu thích tất cả và để tất cả đi qua, trôi qua. Làm điều này bằng cách nào? Bằng cách dùng nhiều thời gian để nhìn ra sự mục rữa, bản chất hay hư nát của một dính bén. Bạn thường chú tâm vào sự kích động, ánh chớp hoan lạc mà sự dính bén đem đến. Nhưng bạn hãy nhìn vào nỗi ưu tư, đau đớn, tình trạng mất tự do; đồng thời nhìn vào niềm vui, sự bình an, và tình trạng tự do của bạn trong những khi một dính bén biến tan. Khi ấy, bạn sẽ không ngoái lại sau lưng nữa, và để mình được vui hưởng với bản nhạc của giây phút hiện tại.
Sau cùng, bạn hãy nhìn vào xã hội chúng ta đang sống - nó bị mục nát tận cốt lõi, tiêm nhiễm tràn ngập những dính bén. Nếu ai dính bén với quyền lực, tiền bạc, của cải, danh giá và thành công; nếu ai tìm kiếm những điều ấy như thể hạnh phúc của họ tùy thuộc vào chúng, họ sẽ được nhìn nhận là những thành viên ích lợi của xã hội, năng động, chăm chỉ. Nói một cách khác, nếu họ chạy theo những thứ ấy với một tham vọng có sức hủy diệt bản hòa tấu cuộc sống của họ và làm cho họ trở nên cứng nhắc, lạnh lùng, vô cảm với tha nhân và với bản thân, xã hội sẽ trân trọng họ như những công dân khả tín, thân nhân bạn hữu của họ sẽ tự hào về địa vị mà họ đạt được. Bao nhiêu người được nhìn nhận là đáng kính mà bạn quen biết vẫn còn giữ được sự nhạy cảm tinh tế của tình yêu mà chỉ có siêu thoát mới có thể mang lại được?
Nếu bạn suy xét về điều này cho thấu đáo, bạn sẽ nghiệm thấy một sự kinh tởm sâu xa trong bản năng của bạn, đến độ bạn sẽ tránh lánh mọi dính bén như bạn tránh né một con rắn độc bám sát theo bạn. Bạn sẽ chống lại và đoạn tuyệt với thứ văn hóa băng hoại dựa trên tính ham hố và dính bén, trên sự ưu tư và tham lam, và trên cái cứng nhắc và vô cảm vì không có tình yêu.
Nguyên tác: The Way To Love
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2008

Thử Nhận Diện Con Người Việt Nam

Một trong những câu hỏi nền tảng được nhiều người nêu lên và hầu như chưa ai tìm ra lời giải thoả đáng: Tại sao một dân tộc có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm lại rất khó hợp tác với nhau để thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh? Tại sao một dân tộc đã anh dũng đánh bại tất cả những mưu đồ xâm lược đến từ bên ngoài, nhưng xem ra lại quá nhẫn nhục trong thời bình và hơn nữa bước đi quá khó nhọc trên con đường công nghiệp hoá? Tính cách nào mang lại cho dân tộc Việt Nam một sức sống mãnh liệt đến thế, để vẫn tồn tại, vẫn chiến đấu và chiến thắng qua mọi cuộc xâm lăng bạo tàn?... Nhưng tính cách nào đã có, đang có "trong ta", để trở thành một lực cản, một sự níu kéo, làm ta bước khó khăn hơn trên con đường hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước? Làm sao tạo ra trong xã hội một lối tư duy sáng tạo, một kiểu nghĩ nhất quán, dài hơi, chứ không chắp vá, "ăn xổi ở thì"?
Trong "Cơ hội của Thánh Gióng", tiến sĩ Vũ Minh Khương cũng thẳng thắn nói lên nỗi bức xúc của mình trước hiện tình của đát nước. Trả lời những câu hỏi của phóng viên báo Tuổi Trẻ về nguyên nhân của những tiêu cực trong xã hội ta và đâu là Thánh Gióng hôm nay, ông nói: "Theo tôi, trước hết chúng ta phải nhìn thẳng vào mình và phải biết xấu hổ, nếu cần. Ta hãy tự hỏi: tại sao một dân tộc giầu nhân văn, yêu cái đẹp như vậy mà tỉ lệ người bị HIV, nghiện ma tuý lại cao hơn Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản...? Tại sao người Việt vốn trọng tín nghĩa mà nay lại bị xếp hạng nạn tham nhũng cao nhất nhì Đông Á? Giới trẻ ngày nay sao không có Trần Quốc Toản, Lê Hồng Phong, Kim Đồng...? Tại sao trong các cán bộ nhà nước không còn ai nói: bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu thần trước?
Chúng ta từng làm nên Điện Biên Phủ, mùa xuân đại thắng năm 1975, vậy mà 30 năm qua hoà bình độc lập ta làm được gì để không hổ thẹn với cha ông? Chúng ta hoan hỉ về xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới là đúng. Nhưng hãy nhớ rằng cha ông chúng ta đã từng đạt được danh hiệu này từ hàng thế kỉ trước. Trong tình huống nào đó ta phải chấp nhận tạm thời, nhưng đừng quá vui vẻ về các chỉ số xuất khẩu lao động. Hãy luôn canh cánh về thể diện quốc gia, tự hào dân tộc".
Những dòng dưới đây không phải là những câu trả lời thoả đáng cho những câu hỏi hóc búa ở trên. Đây chỉ là đôi nét phác thảo để nhận diện con người Việt Nam qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, với hi vọng hiểu thêm đôi chút về con người Việt Nam hôm nay.

1- MẪU NGƯỜI CỦA NHO GIÁO
Suốt dọc nhiều thế kỉ dưới chế độ quân chủ theo ý thức hệ Nho giáo, quyền lãnh đạo đất nước được đặt vào tay vua, chúa, quan quyền. Ngoài giới thượng lưu đó, xã hội Việt Nam thời xưa được chia thành bốn giai tầng: sĩ, nông, công, thương. Trên thực tế, hai nhân vật chính của một nước nông nghiệp theo ý thức hệ Nho giáo vẫn là nhà Nho và nhà nông. Thật vậy, thủ công nghệ và thương nghiệp chưa có vai trò quan trọng trong xã hội, hơn nữa còn bị đánh giá thấp, nhất là đối với người buôn bán.
Giới sĩ phu, trái lại, được triều đình ưu đãi và nhân dân kính trọng. Tuy họ chưa thuộc thành phần quan lại, nên chưa được hưởng bổng lộc vua ban, nhưng giới sĩ phu cũng được Triều đình miễn tô thuế và miễn lao dịch. Trong làng xã, nhà nho có một thế lực tinh thần và đóng một vai trò đặc biệt. Họ sống dựa vào danh vị và uy tín, được dân làng và họ hàng vị nể, trọng vọng, biếu xén, giúp đỡ.
Nhà nông chiếm đại đa số dân chúng và và là lực lượng sản xuất nền tảng của quốc gia. Vì ruộng đất ít và phương tiện canh tác thô sơ, nên nông dân Việt Nam vừa thất học, vừa thiếu ăn, thiếu mặc, nhà cửa rách nát. Nhưng chính họ lại là lực lượng sản xuất và đóng góp kinh tế chủ yếu cho Nhà nước. Hàng năm họ phải nộp thuế bằng thóc, bằng tiền và bằng cả lao dịch (đi phu, đi xâu).
Vì điều kiện cụ thể của sinh hoạt nông nghiệp lệ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nhà nông Việt Nam gắn bó mật thiết với thiên nhên và luôn hướng tới nếp sống hài hoà, nhưng có phần thiên về âm tính: lấy tĩnh làm gốc, cái vô hình trên cái hữu hình, tình nặng hơn lí, xu thế ổn định nổi trội hơn xu thế phát triển. Khuynh hướng hài hoà nặng âm tính này biểu hiện rõ rệt qua lối sống tình cảm, mềm dẻo, kín đáo, tế nhị, linh hoạt, du di, xuề xoà, tương đối, "chín bỏ làm mười".
Sinh hoạt nông nghiệp, đặc biệt nghề trồng lúa nước, với đặc tính thời vụ cao, đòi hỏi phải dựa vào nhau để sống. Chính vì vậy, tính cộng đồng, tinh thần tương thân tương trợ và tổ chức phường hội, giáp thôn, làng xã luôn được đặt nổi. Ngoài ra mỗi gia đình riêng lẻ cũng không đủ khả năng để đối phó một cách hữu hiệu với những bất trắc của môi trường tự nhiên, như thiên tai hay lụt lội, và điều kiện xã hội, như nạn trộm cướp chẳng hạn. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà ở Việt Nam tổ chức nông thôn như huyết thống thường được đặt căn bản trên yếu tố gia tộc. Các khái niệm truyền thống như "cửu tộc" (chín đời), "tộc trưởng" (trưởng họ); "từ đường" (nhà thờ họ), "gia phả"; "ruộng kị"; "giỗ họ": "giỗ tổ"... đều liên quan đến gia tộc chứ không phải gia đình.
Ca dao Việt Nam diễn tả thật sắc nét vai trò của gia tộc, với khả năng yêu thương, cưu mang và đùm bọc nhau: "Con người có tổ có tông. Như cây có cội, như sông có nguồn". Hay "con có mẹ như măng ấp bẹ". Trái lại, "con không cha như nhà không nóc". Trong mọi trường hợp chắc chắn "máu loãng còn hơn nước lã".
Trong hệ thống đại gia tộc của Việt Nam, "chú là cha" và "anh em như thể tay chân, rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần". Nhờ vậy, dù có sa cơ thất thế thế nào đi chăng nữa, con người cũng không cảm thấy bơ vơ côi cút, vì "sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì". Gia tộc không những hỗ trợ về vật chất, mà còn là điểm tựa về tinh thần và xã hội. Người xưa thường nói: "Nó lú nhưng chú nó khôn", và vẫn đinh ninh rằng "một người làm quan cả họ được nhờ".
Theo truyền thống, tổ chức gia tộc là quan hệ theo hàng dọc, có tôn ti trật tự, có cấp bậc trên dưới, với vai trò rõ rệt của tộc trưởng và gia trưởng. Mệnh lệnh và kiến thức thường cũng được truyền đạt theo tương quan chiều dọc từ trên xuống. Ngoài họ nội, còn có họ ngoại, họ đàng vợ, đàng mẹ, đàng bà. Mỗi người đều nằm trong một mạng lưới rộng lớn và phức tạp về họ hàng. Giữa những người thân thuộc, nội cũng như ngoại, không những có liên hệ tình cảm, mà còn có trách nhiệm liên đới với nhau.
Nếu qui tắc xử thế của Tây phương là luật pháp, khách quan, rõ rệt nhưng cứng ngắc, thì qui tắc sử sự ở Việt Nam ngày xưa là tục lệ. Truyền thống thiên về tình cảm của người dân Việt đã làm "mềm đi" tính cứng ngắc của luật pháp bằng những tục lệ của làng xã. Vua được coi là Con Trời (Thiên tử), nắm trọn quyền sinh sát trong tay. Nhưng trong thực tại cuộc sống, có những lúc "phép vua thua lệ làng". Nhiều làng giống như một hòn đảo biệt lập, chung quanh có luỹ tre và ao hồ bao bọc. Sau luỹ tre và cổng làng là một cuộc sống riêng biệt và đóng kín đến độ nhiều khi mỗi làng trở thành một thế giới riêng, với hương ước, tục lệ, nếp sống tinh thần và ngay cả điều kiện vật chất.
Nho giáo chủ trương dùng đức để trị dân, nên phải giao phó công việc trị nước trong tay những người có đức, có tài. Lớp người này, nhà Nho gọi là quân tử. Theo nguyên nghĩa, chữ quân tử lúc đầu được sử dụng để diễn tả địa vị của tầng lớ sĩ phu, vua quan, đối lập với đám tiểu nhân là tầng lớp nông dân và thợ thuyền. Vì thế, quân tử thì tốt đẹp, cao quý, còn tiểu nhân chỉ là bọn "phàm phu tục tử, thất học, đê tiện, thấp hèn, lỗ mãng, vô lễ, nhỏ nhen, đáng khinh bỉ. Thành ra, sự so sánh rõ rệt trắng đen: quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt (quân tử đạt về cái lý cao minh, tiểu nhân đạt về cái lý đê tiện); quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân (quân tử cầu ở mình, tiểu nhân cầu ở người); quân tử hoà nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hoà.
Bên cạnh nghĩa nguyên thuỷ đó, còn hai ý nghĩa chính nữa, theo đó "quân tử" thuần tuý ám chỉ tư cách, hoặc vừa địa vị vừa tư cách. Do đó theo Khổng Tử, quân tử phải là người có đức nhân, hiểu rõ điều nghĩa (quân tử dụ ư nghĩa), giữ vững khí tiết trong hoàn cảnh bần cùng (quân tử cố cùng), trọng trung tín (quân tử ... chủ trung tín), thận trọng trong lời nói mà hăng hái trong việc làm, biết thì nói là biết, không biết thì chịu là không biết (tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã), quân tử truy tầm đạo, không lo nghèo (quân tử ưu đạo bất ưu bần).
Dưới ý thức hệ Nho giáo và trong môi trường cụ thể "làng - họ", con người Việt Nam ngày xưa chỉ là một bộ phận phụ thuộc và hoàn toàn lệ thuộc vào tập thể. Cho đến cuối thế kỉ XIX, tại Việt Namchưa xuất hiện mô hình nhân cách và nhân vị của con người độc lập, tự do, tự tại với nếp sống và nếp nghĩ riêng. Con người Việt Nam lúc ấy là "con người của gia đình, của họ hàng, của làng nước. Bản thân họ không có gì là của mình: thân thể là của cha mẹ cho, phận vị là của vua cho, số mệnh là của Trời cho. Họ có được cái gì cũng là nhờ ơn vua, ơn Trời. Gía trị của nó được tính theo chỗ nó là con ai, thuộc họ nào, làng nào, có chức sắc gì, chứ không theo chỗ bản thân nó là gì. Trong xã hội tất cả là thần dân của vua, đều được xếp vào bậc thang tước vị, rồi lại chia thành hạng cha chú hay con cháu. Con người phải nhìn xuống, nhìn lên trong cái thang trật tự trên dưới đó, tự xác định vị trí của mình mà ăn mặc, nói năng, đi đứng cho phải phép. Đó là con người chức năng trong xã hội luân thường chứ không có nhân cách độc lập"
Thân phận người phụ nữ còn bi đát và thê thảm hơn, vì suốt đời bị trói buộc bởi "tam tòng": khi còn sống trong gia đình phục tùng cha, khi lấy chồng phục tùng chồng, chồng chết phải theo con, nghĩa là không được bước thêm bước nữa. Rút cục suốt đời phải quên hạnh phúc riêng tư và chính bản thân để tận tụy lo lắng, hi sinh cho chồng con. Hầu như những phụ nữ ấy không thể nghĩ đến chuyện phát triển bản thân, mà phải tận lực cho giang sơn nhà chồng, để rồi suốt đời luẩn quẩn bên cái cối xay sau luỹ tre làng,
Hẳn chúng ta chưa quên câu nói được người xưa lặp đi lặp lại như một điệp khúc, từ đời nọ sang đời kia: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một trai kể là có, mười gái vẫn kể là không). Lý do sâu xa của việc đối xử phân biệt này nằm ở quan điểm Khổng Mạnh về việc nối dõi tông đường, nghĩa là triệt để đặt lợi ích của gia đình và dòng họ trên quyền lợi của con người cụ thể. Do đó trong ba tội bất hiếu, tội lớn nhất vẫn là không có con trai để nối dõi tông đường, (bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại). Mẫu hình gia đình xây dựng theo tư tưởng Nho giáo là gia đình nề nếp. Trong gia đình này, mỗi thành viên đều biết và cố gắng thi hành cặn kẽ nhiệm vụ, lễ tiết và vị thế của mình. Giáo dục giữ một vai trò rất quan trọng và là trách vụ đặc biệt của người gia trưởng. Nguyên tắc nam tôn nữ ti, chồng chính vợ tuỳ, con cái phải có hiếu, anh em hoà thuận...là nguyên tắc căn bản. Riêng người con gái, phải gắn liền với "tam tòng tứ đức". Nhưng trong thực tế, ở những gia đình nề nếp không ai vì nguyên tắc nam tôn nữ ti mà khinh thường người phụ nữ, trái lại chồng luôn tôn trọng và nể vợ. Khổng giáo quy định đôi vợ chồng phải "tương kính như tân". Và cha mẹ dù tin yêu con ruột mình hơn, vẫn giao việc nhà cho con dâu, nghĩa là tôn trọng chức năng người chủ phụ.
Sau khi phân tích hai mẫu người cổ điển, giáo sư Trần Đình Hượi còn thêm một mẫu người thứ ba: "bên cạnh mô hình người quân tử, ta còn có một mô hình khác, cũng là người nông dân, nhưng không phải nhìn theo cách nhà Nho, mà tổng hợp từ thực tế cuộc sống của nền kinh tế cống nạp và tự túc, của đời sống gia đình, làng, họ, của trật tự trên dưới vua quan với dân, cha chú với con em...". Ông gọi rất đúng" con người đó là "tiểu kỉ"- cái tôi bé nhỏ- cam chịu thân phận hèn mọn, bị động, nhờ ân huệ, vun quén, xà xẻo, khôn khéo lẩn tránh... Con người đó cũng có quan niệm thế giới của họ, ý thức về bản thân và lựa chọn cho mình cả lí tưởng, cả cách ứng xử, cách đánh giá lợi hại, khôn dại..."
Dĩ nhiên "con người tiểu kỉ" này có lí do và vai trò của nó trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó. Phải chăng đây là một hình thức tự vệ cần thiết, giúp người nông dân bảo toàn sinh mạng trong những giai đoạn lịch sử khắc nghiệt? Tuy nhiên, hôm nay khi đất nước đang nỗ lực đi vào dòng chẩy chung của nhân loại thì "con người tiểu kỉ" nói trên lại trở thành lực cản. Não trạng khép kín, luồn cúi, khúm lúm, an phận, phụ thuộc, manh mún, tiểu xảo, rình được một cơ hội nào đó thuận tiện thì tìm cách xoay sở, vun quén chút ít cho cái tôi nhỏ bé đang làm thui chột óc sáng tạo, tính khách quan, tinh thần tự lập, tự chủ của mô hình nhân cách mới.

2. DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC
Vào cuối thế kỉ XIX, bộ máy cai trị của thực dân Pháp đã ổn định. Năm 1877, nghĩa quân của Mai Xuân Thưởng ở Bình Định- Phú Yên bị Trần Bá Lộc đánh tan tành. Tám năm sau 1895, Phan Đình Phùng bị bệnh lị và từ trần ở Hà Tĩnh. Nghĩa quân của ông, số tuẫn tiết, số chạy trốn ra nước ngoài, số còn lại ra đầu thú để mong được an thân, nhưng rồi cũng bị người Pháp giết gần hết. Hai năm sau, ở Bãi Sậy tiếng súng đã im bặt và Nguyễn Thiện Thuật phải trốn sang Tầu. Cũng vào cuối năm đó, Đề Thám tạm giảng hoà với Pháp để lập ấp ở gần Nhã Nam vào năm 1898.
Được rảnh tay với công việc bình định thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp bắt đầu khai thác và phát triển Việt Nam. Một mô hình xã hội mới đang được hình thành với những thay đổi rõ rệt về cơ cấu chính trị, sinh hoạt thương mại, tổ chức xã hội, đường hướng giáo dục, nếp sống, lối nghĩ. Đường giao thông, cơ sở hành chánh, trường học, bệnh viện và thị trấn thi nhau mọc lên. Đô thị chiếm vai trò chủ yếu trong mọi sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Văn hoá Tây phương và nếp sống mới bắt đầu lan toả, thâm nhập ngay cả đàng sau luỹ tre làng và bên trong các gia đình.
Ngay cả nhà Nho yêu nước vào đầu thế kỉ XX như Phan Bội Châu, nhất là Phan Chu Trinh, Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng... cũng chấp nhận sự thấp kém và bế tắc của chế độ quân chủ chuyên chế theo ý thức hệ Nho giáo, so với ưu thế của văn minh Tây phương. Thấm thía nỗi nhục của người dân mất nước, họ kịch liệt lên án chế độ phong kiến của ta và ca ngợi chế độ dân chủ của người. Các tư tưởng dân chủ của các tác giả nước ngoài như J. J. Rousseau, Voltaire, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu được đề cao.
Thay vì giải pháp bạo động và vọng ngoại, Phan Chu Trinh đề nghị phát động phong trào duy tân nhằm mục đích "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh". Ngược với quan điểm của đại đa số nhà cách mạng lúc đó muốn cầu viện Nhật hay Tầu, Phan Chu Trinh chủ trương "tự lựckhai hoá". Mấy dòng ngắn ngủi sau đây, viết tại Côn đảo, bộc lộ tâm huyết và chí hướng của ông: "Chưa có tư cách quốc dân độc lập, dẫu có nhờ sức nước ngoài chỉ diễn cái trò "đổi chủ làm đầy tớ lần thứ hai", không ích gì (...). Mình không tự lập, ai cũng là cừu địch của mình, Triều Tiên. Đài Loan, cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp".
Phong trào Duy tân chủ trương Âu hoá theo mô hình Nhật Bản và coi đó như đường cứu quốc khả thi nhất. Yêu cầu bãi bỏ lối học từ chương và con đường khoa cử ngày xưa để mở học đường theo kiểu phương Tây. Họ đề nghị lập hiệu buôn và phát triển thương nghiệp và khuyên quốc dân theo lối sống mới: cắt tóc ngắn, bỏ tục nhuôm răng, mặc Âu phục...
Vào khoảng cuối thập niên 20, chế độ thuộc địa đã khai sinh lớp người mới theo Tây học và làm biến đổi xã hội nho phong cũng như thôn ấp ngày xưa. Trước hết, việc khai thác kinh tế thuộc địa đã tạo ra một lớp doanh nhân bản xứ. Họ chính là lớp phú hào mới và hấp thụ nhanh chóng nếp sống Tây phương. Việc phát triển kinh tế, khuyếch trương thương mại và mở mang hay kiến thiết đô thị tạo nên nhiều việc làm: công chức, tiểu thương, công nhân, thủ công nghệ... Đông đảo quần chúng rời nông thôn để lên thành thị kiếm sống. Với thời gian, họ trở thành dân thành phố, với nếp sống, nếp nghĩ và tâm lí khác hẳn với quần chúng tại nông thôn. Đặc biệt, việc thay thế Hán học cổ truyền bằng chương trình Pháp đã tạo ra một lớp trí thức mới xuất thân từ trường Tây, thông thạo ngôn ngữ, hiểu rõ văn hoá, tư tưởng và nếp sống phương Tây hơn các nhà Nho yêu nước trước đây.
Ba thành phần này có điểm gặp gỡ chung là sống gần người Pháp, trong khung cảnh đô thị và đường lối sịnh hoạt do chính quyền thuộc địa tạo ra. Họ tiếp thu nhanh văn hoá phương Tây. Về kinh tế, nếp sống của họ tiện nghi và thoải mái hơn dân quê chân lấm tay bùn. Về văn hoá, đời sống thành thị văn minh, cởi mở, tự do và dân chủ hơn nếp sống u buồn sau luỹ tre xanh.
Từ khung cảnh văn hoá Tây phương và điều kiện sống mới ở thành thị, giới trí thức trẻ gắt gao đả phá xã hội nho phong cũ và hăng hái truyền bá lối sống mới. Họ cương quyết loại trừ mô hình đại gia đình "tứ đại đồng đường", với chế độ gia trưởng, với những bổn phận hiếu đễ, tam tòng, tứ đức. Theo họ, những tục lệ cũ như cúng tế lễ bái, kiêng kị huý nhật, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó... được coi là lạc hậu, cần phá vỡ để giải thoát con người. Cần tôn trọng nhân phẩm, hạnh phúc và quyền tự do lựa chọn của cá nhân trong hôn nhân.
Nhóm Tự Lực Văn Đoàn được thành lập với mục đích hô hào bỏ cũ theo mới. Văn đoàn triệt để chủ trương đổi mới và thẳng tay phá đổ tất cả những cái cũ cản trở bước tiến của họ. Trong cuộc chiến này, văn đoàn sử dụng nhiều thứ khí giới khác nhau, nhưng thứ khí giới lợi thế nhất vẫn là tiểu thuyết. Hai tác phẩm tiên phong là "Đoạn Tuyệt" của Nhất Linh và "Nửa Chừng Xuân" của Khái Hưng. Nhất Linh kịch liệt đả phá tất cả những tệ đoan, hủ tục, mê tín dị đoan... của xã hội cũ, để sau đó xây dựng một nếp sống tiến bộ hơn. Rất tiếc là hình ảnh xã hội mới còn rất mơ hồ và mung lung, ngay cả con đường cách mạng được giới thiệu qua nhân vật Dũng còn chưa có gì rõ nét.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tường Long, tức Hoàng Đạo, được coi là nhà xã luận của nhóm, Tự Lực Văn Đoàn đã bắn thẳng vào Tam Giáo cổ truyền: ''Những lí tưởng của các cụ xưa không hợp với trình độ học thức của thiếu niên nữa. Nho giáo lung lay sắp đổ, sắp sửa theo mấy nhà thâm nho còn sót lại mà tiêu diệt với thời gian. Còn đạo Lão, đạo Phật chỉ đem lại cho thiếu niên những tư tưởng chán đời, ta không thể nương tựa vào đấy mà sống còn được".
Tạp chí Phong hoáNgày nay cũng lớn tiếng đòi cải cách hương thôn. Nguyễn Tường Long viết về nếp sống nông thôn như sau: "Ta phải thay thế cái mớ lễ nghi cũ rích nó phân đẳng cấp xằng, nó xướng lên một miếng giữa làng bằng một sàng trong xó bếp bằng một cái lễ nghi mới. Những điều lễ nghi mới ấy dạy cho dân quê rằng một người trong làng là một người công dân, có đủ quyền tự do làm một người công dân, dù là một bạch đinh hay một ông Lý ông Chánh, quý hồ mình góp đủ sưu thuế theo đúng luật lệ là không ai ức hiếp được mình, chớ không cần phải khoác cái chức nọ, chức kia".
Đối với nền luân lý cũ, Nguyễn Tường Long tuyên bố không úp mở: "Nền luân lý ấy bắt ta phải bái phục lời nói cổ nhân, dầu lời nói sai cũng mặc, không được đem lí luận ra mà bẻ bác. Cha mẹ đẻ ra ta thì những câu bảo ban, ta phải cúi đầu vâng theo dù những câu ấy trái với tư tưởng của ta. Mà kể thực ra thì dưới chế độ đó ta chẳng còn có tư tưởng gì nữa, mà ta là của gia đình. Chữ tự do cá nhân là một chữ từ xưa đến nay ta không biết nghĩa là gì. Ngày nay, cái óc biết suy xét của ta bắt ta không nhắm mắt như xưa, mà bắt ta đem lẽ phải, lương tri, ra mà suy nghĩ cứu cánh mọi sự ở đời".
Cũng chính Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long đã đưa ra "Mười điều tâm niệm" để kết hợp các phần tử trẻ tiến bộ hầu tạo một lực lượng cách mạng trong tiến trình đòi hỏi tự do và dân chủ: "Thanh niên nam nữ phải dứt khoát theo mới, phải tin ở sự tiến bộ, phải có lí tưởng dấn thân hành động, phải bỏ óc vị kỉ để góp sức xây dựng xã hội, phải cố gắng rèn luyện nghị lực và một thân thể cường tráng, phải loại trừ mê tín dị đoan, xây dựng tinh thần khoa học, bài trừ thói cẩu thả, học hỏi cách quản lí và tổ chức. Cuối cùng phải xem thường danh lợi nhỏ mọn của xã hội phong kiến và thực dân để lo xây dựng một sự nghiệp lớn lao cho ngày mai.
Những nhận xét của Hoàng Đạo khá sát với một thực tế xã hội đang bị chìm ngập dưới lớp bùn của Tống Nho thời đó. Một điều đáng tiếc là tác giả Mười điều tâm niệm chưa sáng suốt "gạn đục khơi trong", chắt lọc phần tinh hoa trong gia sản của dân tộc.
Cùng với phong trảo thể dục- thể thao, phong trào thẩm mĩ và cải cách y phục nữ ra đời. Năm 1934, hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường hô hào trên báo Phong Hoá: "Ngày xưa các cụ ăn mặc cốt để che khuất thân thể, nên làm ra một bề ngoài lụng thụng, bây giờ phải ăn mặc sao cho dáng điệu thân thể được tự nhiên phô bày. Hay có khi để chữa cái dáng điệu ấy được uyển chuyển thướt tha thêm". Trong bối cảnh đó, chiếc áo dài Cát Tường xuất hiện và chẳng bao lâu lan tràn từ Hà Nội về các tỉnh, từ Bắc vào Nam.
Nói chung giới trí thức Tây học đã ý thức về hạnh phúc cá nhân, tự do kết hôn, quyền bình đẳng nam nữ, nhân cách tự lập, sáng tạo, trách nhiệm... Dĩ nhiên, đây chỉ là một thiểu số tiểu tư sản rất ít ỏi sống ở thành thị. Đại đa số người Việt Nam vẫn cam chịu thân phận người dân bị trị, nghèo khổ và lạc hậu. Vì điều kiện nghiệt ngã của lịch sử Việt Nam vào giai đoạn đó, mô hình "người trí thức tự do" vừa ló dạng và chưa kịp phát triển đã bị đi vào quên lãng. Nó chỉ để lại một số dấu ấn mờ nhạt ở thành thị và chưa có ảnh hưởng quan trọng nào trên nếp sống, cũng như lối nghĩ thâm căn cố đế ở nông thôn.
Về phương diện kinh tế, Việt Nam lúc đó mới chập chững bắt đầu phát triển và bị chi phối nặng nề bởi chế độ thuộc địa. Trên tổng thể, Việt Nam lúc đó vẫn là một nước nghèo, chậm tiến và bị đô hộ. Nhưng đó là tình trạng chung của các nước Đông Nam Á, nên sự khác biệt giữa Việt Nam với các nước láng giềng hầu như không có. Bảng đối chiếu sau đây của tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên viện trưởng nghiên cứu quản lí kinh tế Trung ương, cho chúng ta một ý niệm: "Nếu lấy mốc tính là năm 1950, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam bằng 80.5% của Thái Lan, thì năm 1999 chúng ta chỉ còn bằng 20%. So với Hàn Quốc thì năm 1950 ta bằng 85,5%, tức Hàn Quốc với Việt Nam lúc bấy giờ cũng đói như nhau, còn bây giờ ta chỉ còn bằng khoảng độ 11, 12% Hàn Quốc. Lúc bấy giờ ta giầu có hơn Trung Quốc, Trung Quốc lúc bấy giờ đói khổ hơn ta. Ta bây giờ thu nhập bình quân đầu người bằng khoảng 20% Trung Quốc mà thôi". Các con số trên đây cho thấy các nước láng giềng đã phát triển mạnh trong mấy thập niên vừa qua, còn Việt Nam đã dậm chân tại chỗ hay tiến quá chậm. Kết quả hiển nhiên là sau 50 năm, khoảng cách giữa họ và ta thay vì thu hẹp lại, đã nới rộng thêm.

3. ẢNH HƯỞNG THỜI BAO CẤP
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo nên một sự thay đổi lớn lao và triệt để trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Chính quyền cách mạng được thành lập để thay thế cơ cấu chính trị cũ. Hiến pháp mới được ban hành, nhiều đoàn thể cách mạng ra đời. Vai trò của Nhà nước và xã hội được đề cao, trong khi vị trí của gia đình trong cuộc sống toàn xã hội bị giảm nhẹ và thu hẹp. ''Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng trên cơ sở cộng đồng xã hội, coi cá nhân chỉ tồn tại trong xã hội, cộng đồng xã hội bằng hành động tập thể, bằng nhà nước tập quyền, hành động theo kế hoạch không gián đoạn để thực hiện một lí tưởng chung đã vạch sẵn là chủ nghĩa Cộng sản để đem lại tự do hạnh phúc cho mọi người".
Con người xã hội chủ nghĩa chủ yếu sống với xã hội và sống cho đoàn thể, chứ không phải sống trong gia đình. Hậu quả tất nhiên là con người có thói quen hành xử như một thành viên của tổ chức, một bộ phận phụ thuộc và phục vụ đoàn thể thay vì là một nhân vị tự tại, tự lập, có trách nhiệm và sáng tạo.
Trong giai đoạn đó, tất cả các tổ chức làng xã và quan hệ họ hàng được vận dụng tối đa để phục vụ kháng chiến. Có những lúc phải triệt để "tiêu thổ kháng chiến" và di tản tản tất cả về nông thôn. Dần dần đi đến chỗ nông thôn hoá đô thị, trường học và cả nếp sống. Nền kinh tế căn bẳn vẫn là nông nghiệp. Cơ cấu tổ chức khép kín và hình thức gia đình cũng rất đơn điệu. Theo giáo sư Trần Đình Hượi, trong thời bao cấp chủ yếu có hai loại gia đình tiêu biểu: gia đình xã viên và gia đình cán bộ.

a)- Gia đình xã viên: Vì nông thôn đã hợp tác hoá, nên mọi người phải gia nhập hợp tác xã và trâu bò nông cụ cũng tập trung ở hợp tác. Gìơ lao động theo kế hoạch và sản xuất theo hợp tác: làm chung và chia sản phẩm theo công điểm lao động.
Mô hình sản xuất này đã xoá bỏ được sự phân chia cố hữu giữa các loại gia đình địa chủ, phú nông, trung nông hay bần cố nông. Trên nguyên tắc, tất cả các xã viên sống giống nhau, nhưng thực tế lại nẩy sinh sự khác biệt sâu xa giữa cán bộ và xã viên. So với trước, điều kiện sống của các gia đình xã viên khá hơn gia đình bần cố nông, nhưng vẫn chưa bằng gia đình trung nông ngày xưa, mặc dù làm ăn tất bật, ít thoải mái và thiếu ấm cúng hơn. Môi trường mới tạo điều kiện để phát triển gia đình hạt nhân, nhưng thanh niên thoát li đi bộ đội, làm công nhân, làm cán bộ. đi học... chưa đủ khả năng để sống tự lập, nên trên thực tế vẫn phổ biến gia đình nhiều thế hệ. "Những đứa trẻ, phần lớn vắng mặt cha mẹ, ở với ông bà, cũng được thả rông, phó mặc cho xã hội. Khi lớn lên, chúng đã chán cuộc sống nông thôn, nếu không thoát li được thì ngả sang buôn bán để được đi đây đi đó, từ đó đâm ra đua đòi, sống bừa bãi, làm ăn phi pháp... Việc làm suy yếu gia đình và kinh tế gia đình, việc ào ạt đưa thanh niên vào biên chế, làm việc nhà nước đã làm cho nông thôn xơ xác, tiêu điều. Và hơn thế nữa đã làm cơ sở xã hội rệu rã, mất ổn định, làm phát sinh nhiều tiêu cực trong đời sống ở cả nông thôn, lẫn ở thành thị".
Về mặt tổ chức, " chính quyền và hợp tác quản lí hộ khẩu. quản lí lao động, không để làm ăn riêng lẻ và chạy ngoài. Việc đi lại khỏi làng: nhập ngũ, đi học nghề, làm công nhân hay viên chức phụ thuộc khá nhiều vào ý kiến nhận xét của xã. Người nông dân gắn chặt với xã, đóng kín chỉ có môi trường xã hội ở xã, khó năng động, linh hoạt trong việc kiếm sống và cũng trở lại tìm chỗ dựa ở quan hệ họ hàng". Vô hình trung đã nẩy sinh một thứ "luỹ tre làng mới", với "hương ước" và "tập tục" riêng, nhưng tựu trung vẫn trói buộc con người một cách khắt khe và nghiệt ngã như hay nhiều khi còn hơn "luỹ tre làng cũ".

b)- Gia đình cán bộ: Đây là gia điình của những viên chức làm công tác Nhà nước, Đảng, hay Đoàn thể và sống bằng lương tháng. Vì chế độ lương bổng thấp và bình quân nên đời sống của công nhân, công chức, sĩ quan, trí thức ít cách biệt nhau và tất cả đều chật vật. Gia đình cán bộ chủ yếu tập trung ở đô thị, nhưng vì đồng lương thấp nên phải làm thêm: nuôi lợn, nuôi gà, may vá, nhận làm đồ gia công. Xuất hiện một thứ gia đình nửa quê, nửa tỉnh.
Vì hậu quả khốc hại của chiến tranh, do những khuyến khiếm của chế độ bao cấp, nhất là do chủ trương xây dựng nhà nước, đoàn thể mà coi nhẹ gia đình, nên gia đình rệu rã, lộn xộn, chưa có nề nếp mới, chưa thành tổ ấm. "Ở thành phố, có rất nhiều vợ chồng là cán bộ ăn lương tháng, còn con cái được phụ cấp ăn theo, cả gia đình dựa dẫm, trông đợi nền kinh tế bao cấp của nhà nước. Công việc gia đình thành việc phụ, làm tranh thủ, làm cho nhanh để còn nghỉ ngơi, còn đi làm (...). Gia đình thành một thứ nhà tập thể tạm trú, lỏng lẻo. Chịu hậu quả nặng nề của tình trạng lỏng lẻo đó là trẻ con. Phần thì do cha mẹ đều bận việc xã hội, về đến nhà đã mệt phờ, pjần thì do quan niệm tôn trọng tự do, hạnh phúc "cho con được sướng hơn mình", nhiều gia đình thả lỏng, chiều chuộng, bỏ mặc con cái cho nhà trường và đoàn thể. Bố mẹ đi làm, người thì nhốt con lại, người thì đuổi con đi chơi để khoá cửa. Cả hai cách đều đẩy trẻ con đến chỗ ghét gia đình, thích la cà lang thang ngoài đường phố, mà đường phố thì có nhiều cái lôi kéo trẻ con vào con đường hư hỏng".
Đứng trên phương diện ý thức hệ, mô hình "người cán bộ cách mạng" xuất hiện và trở thành mẫu người lí tưởng thay thế cho mô hình nhân cách "người quân tử" của Nho giáo và mô hình "người trí thức tự do" dưới thời Pháp thuộc. Qua vận động quần chúng giành chính quyền, lập chính quyền cách mạng, kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội, mô hình người cán bộ cách mạng hoàn chỉnh dần. Mô hình đó phủ định những mô hình có từ trước và cụ thể hoá trong quan niệm về người đảng viên, anh bộ đội Cụ Hồ, người phụ nữ mới,... Phải nói rằng, những nhân vật đó không khác nhau nhiều, mà chỉ là hình thức cụ thể của "người cán bộ cách mạng".
Đức tính căn bản của người cán bộ cách mạng là tính giai cấp, đấu tranh chống áp bức bóc lột, căm thù đế quốc thực dân, loại trừ phong kiến, tuyệt đối tin tưởng ở Đảng và có tinh thần cách mạng. Các giá trị đạo đức và các đức tính nhân bản bị giảm giá hay đặt xuống hàng thứ yếu. Cũng chẳng còn chủ ý rèn luyện tinh thần trách nhiệm , khát vọng dân chủ, tính tự lập, lòng tự trọng và tôn trọng kẻ khác. Kết quả là người cán bộ cách mạng trở thành con người "đơn nhất đồng loạt, lấy cái bất biến là yêu nước, giác ngộ cách mạng, ham lao động, có văn hoá, sẵn sàng phục tùng sự sắp xếp của tổ chức để ứng vạn biến".
Nhiều người lấy làm tiếc là đáng lẽ ra phải dồn tất cả năng lực để hiện đại hoá nông thôn và cải tạo con người tiểu kỉ, thì dưới thời bao cấp người ta lại nông thôn hoá đô thị và đề cao quá đáng tính cách của con người nông dân tiểu kỉ như cam phận hèn mọn, tính toán ích kỉ, sự phục tùng tuyệt đối, thái độ khôn ngoan vụn vặt. Hậu quả của nó là đã tái sinh nhiều mê tín dị đoan cũ và dẫn đến một thứ chủ nghĩa xã hội của nông dân công xã. "Nếu chủ nghĩa xã hội, hiểu là sở hữu công cộng với chính quyền chuyên chính vô sản chỉ huy cả kinh tế, sắp xếp cả công việc làm ăn cho từng người, lo chuyện tương cà mắm muối, và xây dựng bằng cách xác lập quan hệ sản xuất, đã dẫn đến quan liêu bao cấp, đến trói buộc cả xã hội, thì làng- họ, với nền sản xuất nông nghiệp tự túc và cống nạp, với tính cộng đồng, tính đóng kín của nó, cũng dẫn đến cách hiểu chủ nghĩa xã hội "trại lính" với bệnh viện địa phương, nạn phe phái, tệ cường hào".
Dưới cái nhìn của nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh, những cái gì đang trở thành nhược điểm của người Việt Nam hiện nay chủ yếu được hình thành trong thế kỉ 20 này. "Ở miền Bắc hình thành cơ chế quan liêu bao cấp- không có cơ chế đó chúng ta không thắng Mĩ được. Nhưng bao cấp, nhất là bao cấp kéo dài sau năm 1975 làm nẩy sinh hai đứa con tệ hại là thói đạo đức giả và thói vô trách nhiệm".
Chủ nghĩa xã hội đã đưa ra những ý tưởng cao vời nhằm đạt tới sự giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức và vong thân, tạo điều kiện để mỗi người thực hiện chính mình. Theo lí thuyết, đây là một tiến trình cách mạng và phát triển kinh tế- xã hội ở mức cao. Vì thế , khó lòng thực hiện được mô hình lí tưởng này ở những nơi người dân còn nghèo về tri thức và vật chất, như nước ta trước đây. Tuy nhiên, do sức ép của chế độ và thái độ duy ý chí, người ta đã gồng mình đốt giai đoạn và nhất quyết thi đua đạt thành tích.
Trên thực tế, xã hội chủ nghĩa đó mang tính cách "hữu danh vô thực". Thời đó khi ở nơi công cộng, hầu như mọi người phải làm ra vẻ mình là người tiến bộ, phải lặp lại như vẹt tính ưu việt của lí tưởng xã hội chủ nghĩa và xác quyết tính khả thi của nó, nhưng trong chốn riêng tư lại nghĩ khác hẳn. Có một khoảng cách sâu thẳm giữa thực tại và khẩu hiệu, giữa việc làm và lời nói, giữa con người thật và con người xuất hiện trước đám đông. Hố phân cách thê thảm này nhiều khi chỉ được lấp đầy bằng những lời tuyên ngôn đẹp đẽ, khẩu hiệu choáng ngợp và những lời nói dối hoa mĩ. Báo "Ong Đất' của Bungari đã diễn tả giai đoạn đặc biệt này một cách sâu sác và hóm hỉnh qua sáu nghịch lí điển hình sau đây:
- Ai cũng có việc làm, nhưng không ai làm việc
- Ai cũng không làm việc, nhưng ai cũng có lương
- Ai cũng có lương, nhưng không ai sống đủ
- Ai cũng không sống đủ, nhưng ai cũng sống
- Ai cũng sống. nhưng không ai hài lòng
- Ai cũng không hài lòng, nhưng ai cũng giơ tay "đồng ý".
Vì quá đề cao xã hội tính và tập thể tính của con người đến độ lãng quên hay, tệ hơn nữa, phủ nhận nét độc đáo của mỗi nhân vị, chế độ bao cấp đã đi đến chỗ đoàn ngũ hoá và đoàn ngũ hoá con người bằng các đoàn thể, phong trào, những cuộc thi đua, bình bầu, xếp hạng, khen thưởng, đạt thành tích... ba giảm, bốn quyết tâm, năm thi đua, v. v... Mô hình này đã đúc khuôn và nhào nặn nên nhiều "chiến sĩ thi đua", nhiều "anh hùng lao động"... đáp ứng cho đòi hỏi của phong trào thi đua tập thể. Họ được dựng lên từ những phong trào thi đua và chỉ tìm được niềm hăng say phấn khởi trong bầu không khí thi đua, chạy theo thành tích, chạy theo đám đông và tìm cách khẳng định mình bằng những thành tích được khen thưởng.
Môi trường này ít tạo nên những con người có nội lực, có bản lãnh và tìm cách khẳng định mình bằng những giá trị đạo đức: sống chân thành với lương tâm, không chấp nhận tính đoàn lũ, không nịnh bợ, luồn cúi... Đây là những con người có nội lực, biết tìm thấy niềm tự hào khi thể hiện được giá trị nhân sinh trong đời thường hay cố gắng liêm chính vì lí tưởng đạo đức, chứ không vì chạy theo thành tích. Cố gắng trở nên tốt trong hành vi tốt và cái tốt này gắn liền với chính bản chất con người, chứ không phải để đạt thành tích thi đua.
Ngay từ thập niên 60' một vài thức giả đã cảm nhận được sự bế tắc của mô hình này. Nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi là một ví dụ. Nhân dịp kỉ niệm 10 năm từ trần của Từ Chi, nhà nghiên cứu Huệ Chi đã kể lại một nhận định sắc bén của người anh họ, mà gần như chưa ai đề cập đến: "Ông (Nguyễn Từ Chi) là một người sớm nhạy cảm với những bế tắc của con đường nghiên cứu khoa học xã hội chính thống ở Việt Nam. Sự nhạy cảm này bắt nguồn từ một năng khiếu cũng khá đặc biệt, ấy là nhận thức tỉnh táo của ông về mọi chuyển động âm thầm của thời cuộc, hay đúng hơn là một nhãn quan minh mẫn về chính trị. Kể từ năm 1963, sau hai năm làm chuyên gia giáo dục và mải mê điền dã dân tộc học ở Guinée và một số nước trên hai bờ con sông Niger của châu Phi, trên đường trở về ghé qua Moskova khoảng một tuần lễ, khi gặp lại người thân, ông đã có một nhận xét khiến nhiều người trong gia đình sửng sốt: "Mô hình xã hội chủ nghĩa xem ra không ổn rồi, vì nó sans humanifé (không người).

4- THỜI TRANH TỐI TRANH SÁNG
Nói chung nếp sống tinh thần của Nho, Lão, Phật, và Kitô giáo xây dựng trên đạo đức cá nhân, với sự tự chế bên trong và sự kiểm soát của lương tâm, cũng như của Trời, Phật, Chúa. Con người sống với nhau được ràng buộc bởi đạo đức cá nhân, tình liên đới và tình đồng bào.
Tự cổ chí kim, tiền tài, sắc dục, danh vọng, tiện nghi vật chất... luôn mời mọc và quyến rũ con người. Trước ma lực của chúng, không còn cách nào khác hơn là lựa chọn: buông thả sống theo xung lực sôi động của bản năng hay biết tự chế trước sức thúc đẩy của bản năng tự phát và thăng hoá dần những khuynh hướng xấu tiềm ẩn trong ta để tạo cho mình một nhân cách, một sự nghiệp, một thế đứng trong xã hội. Giá trị đạo đức cổ truyền đã góp phần tạo nên một lối sống, cách thế ứng xử và sức tự chế bên trong, giúp người dân sống ngay thẳng, cố gắng làm lành lánh dữ, biết sợ tội và gắn bó tình cảm với người thân, bạn bè, láng giềng, đồng loại.
Kể từ năm 1945 ở miền Bắc và năm 1975 ở miền Nam, các giá trị xã hội chủ nghĩa được sử dụng làm kim chỉ nam cho cuộc sống, thay thế các giá trị đạo đức cổ truyền. Dưới thời bao cấp, bộ máy tuyên truyền và những hình thức chế tài đã được Nhà nước sử dụng để thay thế những giá trị đạo đức cũ bằng đạo đức cách mạng và lí tưởng Cộng sản về một xã hội không giai cấp... Cho đến cuối thập niên 80', có thể nói các giá trị xã hội chủ nghĩa phần nào đã trở thành chuẩn mực cho cuộc sống và trở thành tư tưởng chủ đạo trong xã hội Việt Nam.
Nhưng từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ và việc du nhập "kinh tế thị trường", các giá trị xã hội chủ nghĩa bị sói mòn. Không những về mặt kinh tế, chế độ bao cấp đã đưa đất nước đến bên bờ vực thẳm, mà ngay cả về mặt chính trị- xã hội cũng không còn đủ khả năng giải quyết các vấn đề thực tế và trả lời cho những khát vọng muôn mặt của con người. Xã hội Việt Nam đã rệu rạo, mất định hướng và rơi vào tình trạng tranh tối tranh sáng.
Luật sư Nguyễn Ngọc Bích ví von việc "chuyển hướng từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường trong năm 1987 giống như một người điêu khắc, lúc đầu định khắc một hình kim tự tháp, được nửa chừng thì quyết định chuyển từ kim tự tháp sang hình cầu. Về mặt tri thức việc này khó. Phần nào của kim tự tháp phải cắt đi và cắt đi bao nhiêu, để- trong ngôn ngữ chính trị- vẫn đạt được sự phát triển kinh tế mà không phải hi sinh an ninh quốc gia cũng như các lí tưởng của Chủ nghĩa Xã hội. Về mặt vật chất, sự chuyển đổi kia giống như một chiếc xe buýt chở đầy khách và hàng hoá đang leo núi. Nửa chừng người ta khám phá ra chiếc xe không đủ nhiên liệu để đi lên đỉnh. Vì vậy, chiếc xe buýt phải quay ngang, không quay lại, nhưng rẽ sang trái tìm cách đi về hướng biển mà không thấy có một con đường mòn nào trước mặt. Vấp ngã, sa lầy, nghiêng ngả của chiếc xe trên con đường đi xuống là không thể tránh được. Việc hàng rơi, người ngã chỉ là hệ quả. Chiếc xe buýt tiêu biểu cho nền kinh tế thị trường định hướng, hàng rơi, người ngã tiêu biểu cho tư bản hoang dã. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mà vẫn duy trì những giá trị xã hội chủ nghĩa là một điều chưa xẩy ra trước đây. Nó đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải thực hiện nhiều công tác cùng một lúc từ việc chuyển những định chế hiện thời sang những cái phù hợp với nền kinh tế mới, trong khi phải chống lại những cách suy nghĩ đã tồn tại từ nền kinh tế cũ".
Đất nước càng mở cửa thì sức ép của chế độ trên đời sống của người dân ngày càng lỏng lẻo. Lí tưởng xã hội chủ nghĩa hầu như chỉ còn là những kí ức xa mờ hay những khẩu hiệu đẹp đẽ của một thời đã qua. Kinh tế thị trường được áp dụng ở Việt Nam thực ra chỉ là một thứ tư bản hoang dã và chế độ tự do ở Âu Mĩ nhiều khi bị đồng hoá với thứ tự do phóng túng. Các giá trị đạo đức cổ truyền bị phủ nhận dưới thời bao cấp vẫn chưa được phục hồi đúng mức. Trong khi đó, một số hình thức mê tín dị đoan và tục lệ trước đây bị nghiêm cấm lại bùng nổ, ngoài tầm kiểm soát của nhà nước.
Tình trạng tranh tối tranh sáng và vàng thau lẫn lộn này gây hoang mang cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ. Vì không được giáo dục theo tiêu chuẩn đạo đức cổ truyền, đồng thời cũng chẳng còn lí tưởng xã hội chủ nghĩa làm chuẩn mực cho cuộc sống, nhiều người đang chao đảo và mất định hướng tước cuộc sống mới. Thật vậy, nếu không cảm nghiệm được giá trị đạo đức của những tiêu chuẩn tự chế bên trong, mà cũng chẳng còn những hình thức chế tài bên ngoài của xã hội hay sức thuyết phục của đạo đức cách mạng, thì cái gì sẽ là qui tắc chủ đạo cho cuộc sống nói chung và sinh hoạt kinh tế nói riêng?
Từ đó, thiết tưởng chúng ta cũng không nên quá ngạc nhiên khi thấy một số người đã đồng hoá thị trường tự do với "tự do phóng túng", phi đạo đức và bất chấp luật pháp. Ngày xưa, người ta phủ nhận mọi giá trị tâm linh, chối từ Thượng Đế và đối xử tệ với khách hàng. Ngày nay, để kiếm tiền, nhiều người đã không ngần ngại phong cho khách hàng làm "thượng đế''! Một khi không còn giá trị đạo đức, vắng bóng lương tâm, thiếu vắng lí tưởng xã hội và tình tự quốc gia dân tộc... con người biết lấy gì để lấp đầy sự trống vắng kinh hoàng đó? Thôi thì ai muốn làm gì thì làm, miễn sao kiếm được nhiều tiền và có nhiều cơ hội để hưởng thụ. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta hiểu được tại sao một số người trẻ đang choáng ngợp dưới vẻ quyến rũ của xã hội tiêu thụ, sống buông thả phó mặc cho sự hấp dẫn của tiền, tình, rượi, ma tuý!
Viết về con người và cuộc sống hôm nay cho thấu đáo, với sự hiểu biết cặn kẽ về những thay đổi kinh tế, tâm lí và xã hội, hầu như người ta chưa tìm được một cuốn sách đắc ý. Đa số cá tác giả vẫn viết tiếp tục về chiến tranh và những ngày qua. Một vài người đề cập đến vấn đề đương đại thì nội dung quanh quẩn, vụn vặt, chưa dám xông thẳng vào những bức xúc và vấn đề của con người trong thời mở cửa.
Ít nhất Nguyễn Việt Hà trong cuốn "Cơ hội của Chúa" đã diễn tả một phần cuộc sống ở Hà Nội vào cuối thập niên 80 và đầu 90, với cái bức xúc, sôi động, quay cuồng của một xã hội đang trải qua cơn sốt vỡ da. Trong một xã hội xuống dốc, đạo đức vắng bóng và khủng hoảng lí tưởng đó, dĩ nhiên tiền được phong thần, lên ngôi. Nguyễn Việt Hà viết thẳng thừng, không rào đón: "Muốn biết rõ về ai nên nhúng người ấy nhiều lần vào tiền. Cái thứ dung dịch siêu thặng này làm trôi đi tất cả những mầu mè bọc ngoài. Đạo mạo trở lên hau háu lỗ mãng. Dịu dàng trở nên chua ngoa cướp giật. Lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử về tiền nhiều gấp mười tám lần số người tự tự vì tình. Có phải thế chăng mà đến thời kinh tế thị trường nền văn minh của chúng ta chết sạch những nhà đạo đức thật".
Tâm, nhân vật chính trong chuyện, là một thanh niên đang học cuối năm thứ tư ban Kinh tế kế hoạch, bỏ học để đi lao động hợp tác ở Đông Đức, nhưng kì thực là để buôn lậu. Về nước, Tâm xây nhà, cưới vợ và lập công ti sản xuất hàng nhựa. "Công ti kí được ba hợp đồng có lãi, cường độ sản xuất cao mà cung vẫn chưa đủ cầu. Nhưng cái gì đến phải đến. Không khí lạc quan phủ đầy ba tháng rồi tắt ngấm (...). Vấn đề đầu tiên vấp phải khá cổ điển: Nguồn vốn (...). Cú vấp thứ hai mang tính quyết định là mặt trái của nền kinh tế thị trường, 93% các công ti tư doanh chọn sự lừa đảo làm kim chỉ nam của hoạt động nghiệp vụ. Khoảng hai năm sau bằng sự dốt nát thượng thặng của các quan chức ngân hàng, hệ thống hợp tác xã tín dụng nhân dân ra đời. Nó chết yểu một cách logic để lại danh thơm là vụ bể bạc lớn nhất thế kỉ của nền tài chính. Nó xứng đáng là cú song phi cước, liên doanh giữa Ngân hàng và Quỹ tín dụng, đá đúng vào trung tâm dưới của các cụ về hưu. Các công ti, đặc biệt là những công ti hay làm từ thiện, lộ rõ bộ mặt bất thiện".
Tiểu thuyết "Hai nhà" của Lê Lựu diễn tả khá sắc nét bối cảnh xã hội và tâm lí của một số người trẻ ở giai đoạn tranh tối tranh sáng này. Trong lá thư tuyệt mệnh của Trần Địa gửi người em kết nghĩa Trần Thanh Tâm, chúng ta đọc thấy những dòng thật xót xa về một thế hệ từng được nuôi dưỡng bằng "hận thù" và đấu tranh, bỗng nhiên bây giờ lại ngụp lặn trong thứ "tự do phóng túng" cặn bã từ Âu Mĩ du nhập vào. Dưới đây là một đoạn tiêu biểu:
"Tôi và vợ tôi đều giống cô vợ chú, những kẻ sống suốt đời bằng lòng hận thù. Tất nhiên lòng hận thù của tôi là có mục đích, tôi sẽ kể sau, còn vợ tôi và cô ấy nhà chú thì lòng hận thù hồn nhiên và đơn giản lắm. Nó hồn nhiên như thói quen tự nhiên, như ta hút lấy khí trời mà sống. Vợ tôi và cô ấy nhà chú, những lứa tuổi "con, em" chúng ta âý (cả tôi và chú đều bằng tuổi bố vợ mình chứ còn gì) từ khi tập tễnh học nói và nghe hiểu được điều người khác nói là đã học căm thù chứ không học yêu thương, ít ai dạy lòng yêu thương thành thật. Căm thù bọn giặc cướp nước và bán nước là lẽ đương nhiên, hết sức cần thiết, nhưng căm thù giầu sang, có lúc lại căm thù đói nghèo, căm thù dốt nát lạc hậu, căm thù bố, mẹ, căm thù anh em, căm thù vợ, chồng, căm thù con cháu, nếu họ rơi vào cái khung địa chủ, phú nông (...). Sống căm thù nhiều quá thành ra, lúc yêu thương chân thật không quen. Thói quen "căm thù" của một cơ chế cũ cộng với không khí dân chủ lưu manh từ tây Âu và nước Mĩ đưa lại không phải chỉ phá tan tành lớp người như vợ tôi và vợ chú mà còn nhiều đổ vỡ tiếp theo nữa. Ai sống không đúng ý họ, căm thù. Ai hơn họ, căm thù. Ai bảo họ phải sống có "đất lề, quê thói", họ bảo mất nhân quyền. Ai khuyên họ: Phải sống "đói cho sạch, rách cho thơm, giấy rách phải giữ lấy lề". Họ bảo "mất tự do". Ai bắt họ phải kính trọng yêu thương và nghe lời bố, mẹ, họ bảo mất dân chủ. Cái dịch ''căm thù" và "mất" khiến loại người như vợ tôi và cô ấy nhà chú không thể yêu ai hơn chính bản thân họ. Mà họ thì cái gì cũng thấy mình mất, mất rất nhiều thứ, nên phải cố giật lại, chụp giật thật nhanh, thật nhiều thứ cũng chả thấm tháp gì. Bao giờ cho đủ khi lòng tham của đàn bà muôn đời vẫn là cái thùng không đáy. Giá như chú hiểu được như thế thì chú bớt đau khổ đi rất nhiều".
Bên cạnh "con người tiểu kỉ" ngày xưa, cùng với hai đứa con hư của thời bao cấp là "thói đạo đức giả" và "vô trách nhiệm", cơ chế thị trường hoang dã được áp dụng tại Việt Nam đã sinh thêm hai đứa con hư nữa: đó là "nóng ruột kiếm tiền" và "cắm đầu hưởng thụ". Mọi nhược điểm và tệ nạn khác của xã hội Việt Nam hôm nay có lẽ chỉ phát huy tác hại trong môi trường của mấy đứa con hư này. Nếu đất nước chúng ta còn đứng vững đến hôm nay, đó là nhờ ông bà ta cũng sinh được rất nhiều người con ngoan khác. Chúng ta cần tích cực cộng tác với những người con ngoan để chống lại ảnh hưởng tiêu cực của mấy đứa con hư nói trên.

Nguyễn Thái Hợp

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2008

18. Hãy Yêu Thương Nhau

Đây là giới răn của Thầy, là các con hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Ga. 15: 12
Tình yêu là gì? Bạn hãy ngắm nhìn một nụ hồng. Nụ hồng ấy có thể nói như thế này được không, "Tôi chỉ tỏa hương thơm của tôi cho những người tốt lành mà thôi, và sẽ giữ lại, không tỏa ra cho những người xấu xa?" Bạn có thể tưởng tượng nổi một ngọn đèn giữ lại những tia sáng và không soi cho những người gian ác bước đi trong vùng giãi sáng của nó hay không? Nó có thể làm được điều ấy bằng cách thôi đừng làm ngọn đèn nữa. Và bạn hãy quan sát một cổ thụ ban phát bóng mát một cách không phân biệt, không chối từ một ai, tốt cũng như xấu, trẻ cũng như già, cao cũng như thấp, súc vật cũng như con người và mọi sinh vật khác - kể cả những người đến đốn hạ nó. Phẩm tính thứ nhất của tình yêu là đặc tính không phân biệt của nó. Vì thế, chúng ta được mời gọi hãy noi gương Thiên Chúa là "Đấng cho mặt trời mọc lên cho người công chính lẫn kẻ ác nhân; và ban mưa xuống cho các thánh nhân cũng như phường tội lỗi; vậy các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời các con là Đấng Nhân Lành."
Trong kinh ngạc, bạn hãy chiêm ngắm vẻ tốt lành của nụ hồng, của ngọn đèn, của ngọn cây, vì qua những vật ấy, bạn có một hình ảnh nói lên tất cả về tình yêu.
Làm thế nào ta có thể đạt được phẩm tính ấy của tình yêu? Tất cả những gì bạn làm vì miễn cưỡng hoặc để lấy lòng thiên hạ đều là giả dối, bởi vì tình yêu không thể miễn cưỡng. Bạn không thể làm được gì để miễn cưỡng tình yêu. Tuy nhiên, có một điều bạn có thể từ bỏ. Bạn hãy quan sát sự biến đổi kỳ diệu xẩy đến nơi bản thân của bạn khi bạn không nhìn một người nào đó như là người tốt hay là người xấu, không là thánh nhân hoặc là tội nhân, và bắt đầu nhìn họ không kèm theo một nhận thức nào cả, nhìn một cách vô tri. "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm."
Nhìn ra điều này là bạn đã đạt được phẩm tính không phân biệt mà bạn đã thán phục nơi nụ hồng, ánh đèn, và ngọn cây.
Và đây là phẩm tính thứ hai của tình yêu, đó là chất nhưng không. Như ngọn cây, nụ hồng, chiếc đèn, tình yêu cho đi mà không đòi hỏi. Chúng ta khinh bỉ những người chọn vợ không dựa trên những phẩm cách nơi người thiếu nữ, nhưng dựa vào số tiền hồi môn của thiếu nữ ấy. Chúng ta có thể nói rất đúng, một kẻ như thế không phải yêu vợ, nhưng yêu món lợi tài chánh người vợ đem đến cho họ. Nhưng tình yêu của bạn có khác gì đâu khi bạn chỉ kết thân với những người đem đến cho bạn sự thỏa mãn xúc cảm và tránh né những người không làm như thế; khi bạn chủ động đến với những người cho bạn điều bạn muốn và sống đúng những trông đợi của bạn, đồng thời lại hờ hững lãnh đạm với những ai không làm như thế?
Chỉ có một điều duy nhất cần thiết giúp bạn đạt được phẩm tính nhưng không, đặc trưng của tình yêu. Bạn chỉ cần mở mắt mà nhìn. Chỉ cần nhìn, để xem cái được gọi là tình yêu của bạn thực chất là gì, phải chăng chỉ là bức bình phong che đậy sự ích kỷ và thói tham lam? Nhìn được như thế là đã bước được một bước quan trọng trên con đường đạt đến phẩm tính thứ hai của tình yêu. Phẩm tính thứ ba của tình yêu là tính đương sự không tự nhận thức. Tình yêu thích yêu đến độ không tự nhận ra được mình một cách hạnh phúc. Chiếc đèn chiếu sáng mà không nghĩ đến việc nó có sinh ích lợi cho người khác hay không. Hoa hồng tỏa hương thơm đơn giản chỉ vì không biết làm gì khác, cũng chẳng biết có ai thưởng thức hương thơm của nó hay không. Ngọn cây đem đến bóng mát cũng một cách như thế. Ánh đèn, hương thơm, và bóng mát không phải được tạo ra khi có một ai đến gần, và ngưng lại khi không có ai ở đó. Những sự vật ấy, giống như tình yêu, hiện hữu mà không tùy thuộc vào người khác. Tình yêu hiện hữu không tùy thuộc đối tượng. Những sự vật kia hiện hữu một cách đơn giản, bất kể có ai được hưởng lợi ích của chúng hay không. Bởi vậy, chúng không ý thức về công trạng hoặc về lợi ích của chúng. Tay trái của chúng không biết tay phải của chúng làm gì. "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói khát mà giúp đỡ Chúa đâu?"
Phẩm tính cuối cùng của tình yêu là sự tự do. Ngay khi có sự miễn cưỡng, kiểm soát hoặc tranh cạnh chen vào là tình yêu sẽ chết. Bạn hãy xem hoa hồng, ngọn cây, chiếc đèn hoàn toàn cho bạn tự do như thế nào. Ngọn cây không ra sức lôi kéo bạn đến với bóng rợp của nó, cho dù bạn đang gặp nguy hiểm của cơn say nắng. Chiếc đèn không áp đặt ánh sáng của nó trên bạn, kẻo nhỡ ra vì bóng tối mà vấp ngã. Bạn hãy suy tư một lát về tất cả những miễn cưỡng và áp chế mà bạn đã cam chịu vì người khác, khi bạn thao thức sống sao cho phù hợp với những kỳ vọng của họ để mua cho được tình yêu và sự tán đồng của họ, hoặc chỉ vì bạn sợ sẽ đánh mất họ. Mỗi lần chấp nhận sự áp chế và miễn cưỡng là bạn tự hủy hoại khả năng yêu thương, tức là chính bản tính của bạn. Vậy, bạn hãy nhìn lại tất cả sự áp chế và miễn cưỡng trong cuộc sống của bạn và hy vọng rằng việc nhìn lại này sẽ làm cho chúng biến mất. Ngay sau khi chúng biến mất, tự do sẽ xuất hiện. Và tự do chỉ là một danh từ khác để chỉ về tình yêu.
Nguyên tác: The Way To Love
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2008

Nơi Linh Thánh

Ngày xửa ngày xưa, hai anh em nọ cùng sống và làm việc chung trên một cánh đồng và một cối xay. Mỗi tối về, hai anh em chia đều hoa lợi mà họ thu hoạch được trong ngày. Người em sống độc thân; còn người anh có vợ và nhiều con cái. Bất chợt một hôm, người em sực nghĩ: "Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Mình chỉ có một mình. Còn anh ấy phải nuôi cả vợ con nữa." Thế rồi, mỗi đêm khuya, người em âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người anh.

Gần như đồng thời, người anh sực nghĩ: "Thật không công bằng chút nào việc chia đều hoa lợi. Vì mình có con cái cấp dưỡng cho mình lúc tuổi già. Còn chú ấy sống một mình, sẽ chẳng có ai cấp dưỡng. Chú ấy cần dự phòng cho tuổi già sau này." Thế rồi, mỗi đêm khuya, người anh âm thầm lấy bớt số thóc lúa của mình đem đổ vào kho của người em.

Kết quả là, mỗi sáng thức dậy, cả hai người đều ngạc nhiên thấy phần thóc lúa của mình đã được bổ sung trở lại, không hề bị hao hụt đi. Song họ không hiểu tại sao.

Đến một tối, hai người bắt gặp nhau giữa đường, khi đang mang thóc đổ vào kho của nhau. Cả hai lập thức hiểu ra sự việc. Và họ cảm động ôm chầm lấy nhau.

Nhiều năm sau họ qua đời, câu chuyện ấy dần lan rộng ra. Vì thế, khi dân chúng muốn xây dựng một thánh đường cho thị trấn, họ đã chọn đúng chỗ mà hai anh em gặp nhau tối ngày xưa ấy để đặt móng cho thánh đường - bởi họ nghĩ rằng không thể có chỗ nào khác trong thị trấn linh thánh hơn chỗ này.

**********

Về mặt tín ngưỡng, nét phân biệt quan trọng không phải là giữa người lễ bái và người không lễ bái - nhưng là giữa người yêu thương và người không yêu thương.

Tác giả: Anthony de Mello

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2008

17. Trở Nên Như Con Trẻ

Quả thật, Thầy bảo thật các con, nếu các con
không trở nên như con trẻ,
các con sẽ không được vào Nước Trời.
Mt 18: 3
Đặc điểm đầu tiên ai cũng nhận thấy khi nhìn vào đôi mắt của một con trẻ là vẻ hồn nhiên: con trẻ thật đáng yêu, không biết nói dối, không biết đeo mặt nạ hoặc giả vờ ra bộ làm một cái gì đó không phải là mình. Ở điểm này, con trẻ thực sự giống như những gì khác trong Tự Nhiên. Một con chó là một con chó; một nụ hồng là một nụ hồng; một ngôi sao là một ngôi sao, mọi sự đều là chính nó, một cách đơn giản. Chỉ có người lớn mới có khả năng làm một đàng và giả vờ một nẻo. Khi người lớn trừng phạt đứa trẻ vì đã nói thật, vì nó đã nói toạc ra điều nó suy nghĩ và cảm nhận, khi ấy đứa trẻ mới học biết cách che đậy, và sự hồn nhiên của nó bị hủy hoại. Ngay khi ấy, đứa trẻ gia nhập vào hàng ngũ của vô số người đã thú nhận một cách tuyệt vọng, "Tôi không biết mình là ai nữa." Bởi vì sau khi đã che đậy sự thật của mình quá lâu trước mắt người khác, rốt cuộc họ cũng che đậy con người của họ với bản thân họ. Bạn vẫn còn giữ lại được bao nhiêu nét hồn nhiên tuổi thơ của bạn? Hôm nay, bạn còn dám là mình một cách đơn thành và hoàn toàn là mình trước mắt một ai hay không? Bạn dám cởi mở tất cả và sống vô tư như một con trẻ hay không?
Còn một cách đánh mất sự hồn nhiên của con trẻ tế nhị nữa: đó là khi đứa trẻ bị tiêm nhiễm khát vọng muốn trở thành một người nào đó. Bạn hãy nhìn những đám đông, họ đang cố gắng hết sức để trở thành một người nổi tiếng, thành công, quyền thế. Họ không muốn trở nên người như Tự Nhiên muốn cho họ trở thành - nhạc sĩ, đầu bếp, kỹ sư, thợ mộc, nông gia, nhà phát minh - nhưng trở nên một ông nọ bà kia, để đem đến không phải tâm trạng an phận thủ thường, nhưng là thói tự tôn, tự đại. Bạn đang nhìn thấy những con người đã đánh mất nét hồn nhiên, vì họ không muốn làm chính họ, nhưng muốn đề cao, muốn phô trương bản thân, cho dù chỉ trước con mắt của chính họ. Bạn hãy nhìn vào cuộc sống thường nhật của bạn. Có một ý nghĩ nào, lời nói nào, hành vi nào của bạn lại không bị tiêm nhiễm khát vọng trở thành một nhân vật nào đó, mặc dù tất cả những gì bạn mưu tìm là sự thành đạt trên đường thiêng liêng hoặc để trở thành một vị thánh mai danh ẩn tích không ai biết đến, ngoại trừ chính bản thân bạn? Con trẻ, giống như một con vật hồn nhiên, phó mình cho Tự Nhiên và trở thành chính nó một cách đơn thành. Những người lớn nào còn giữ được sự hồn nhiên đơn sơ cũng phó mình như con trẻ cho sự thúc đẩy của Tự Nhiên hoặc Phận Phúc mà không chút suy nghĩ đến việc trở thành một nhân vật nào đó hoặc để gây ấn tượng với thiên hạ. Tuy nhiên, những người lớn này khác với con trẻ ở chỗ họ không cậy dựa vào bản năng, nhưng vào một nhận thức liên lỉ về tất cả những gì nơi bản thân và quanh quanh. Nhận thức ấy che chở họ khỏi sự dữ và thực hiện sự thăng tiến mà Tự Nhiên muốn cho họ, chứ không phải do cái tôi đầy tham vọng của họ phác họa ra.
Và đây là một cách nữa mà người lớn đã dùng để hủy hoại sự hồn nhiên của trẻ thơ: Họ dạy trẻ con bắt chước một người nào đó. Ngay khi bạn bắt một đứa trẻ khác trở thành một tờ giấy than có khả năng đồ lại, bạn đã dập tắt tia lửa nguyên tuyền đồng hành với đứa trẻ khi nó bước vào hiện hữu. Ngay khi bạn muốn trở thành một người khác không phải là chính bạn, cho dù vĩ đại và thánh thiện đến đâu, thì bạn đã ngoại tình và phản bội với chính hữu thể của bạn. Bạn hãy buồn và nghĩ về tia lửa thần linh của nét cá biệt tiềm ẩn trong bạn, bị chôn vùi dưới những nỗi sợ hãi tầng tầng lớp lớp. Bạn sợ bị chê cười hoặc bị khước từ nếu như bạn dám sống đúng là mình và không theo người khác một cách máy móc trong cách ăn mặc, hành động, và suy nghĩ. Bạn hãy nhìn xem mình bắt chước không những trong hành động, tư tưởng mà còn cả trong những phản ứng, những cảm xúc, những thái độ, và cả những giá trị của bạn nữa. Bạn không dám cương quyết với tình trạng ngoại tình này để đòi lại sự hồn nhiên thuở ban đầu của bạn. Đó là cái giá bạn phải trả để đánh đổi tấm hộ chiếu mà xã hội hoặc tổ chức chấp nhận bạn. Bạn gia nhập thế giới của những kẻ quanh quéo và những kẻ bị kiểm soát như vậy đó, và bạn bị đẩy khỏi vương quốc dành cho tuổi thơ ngây dại hồn nhiên.
Cách tinh tế sau cùng bạn đã dùng để hủy hoại sự ngây thơ của bạn là khi bạn tranh cạnh và sánh mình với người khác. Khi làm như thế, bạn đánh đổi sự đơn sơ của bạn để lấy tham vọng muốn trở nên đẹp tốt cho bằng hoặc vượt trên một ai đó. Bạn hãy nghĩ coi: Lý do một đứa trẻ vẫn giữ được sự hồn nhiên và sống như vạn vật giữa hạnh phúc của Nước Chúa là vì nó chưa bị cuốn hút vào cái mà chúng ta gọi là thế gian - tức là miền tăm tối, nơi những người lớn đang sống. Những người này có cuộc đời không phải để sống, nhưng để mồi chài lời tán tụng và thán phục. Họ không sống đúng là mình một cách thỏa nguyện, nhưng trong sự điên rồ so sánh và tranh cạnh, chạy theo những điều rỗng tuếch được gọi là thành công và danh giá, mặc dù phải trả giá bằng việc hạ gục, làm nhục, và hủy diệt những người xung quanh. Nếu bạn để mình thực sự phải chịu những đớn đau của cái hỏa ngục ấy ngay ở đời này, tức là cái rỗng tuếch cùng cực do nó đem đến, bạn sẽ cảm nghiệm nơi mình một cuộc phản kháng, một sự kinh tởm mãnh liệt, đến độ sẽ bẻ gẫy những xiềng xích lệ thuộc và lừa dối được tạo nên chung quanh tâm hồn bạn. Bạn sẽ cất bước đi vào vương quốc của sự hồn nhiên, nơi cư ngụ của những linh hồn thần bí và các trẻ thơ.
Nguyên tác: The Way To Love
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2008

16. Chỉ Có Một Thầy

Các con đừng gọi ai là thầy, vì các con chỉ có
một thầy, còn tất cả các con là anh em với nhau.
Mt 20: 8
Bạn có thể tìm được một người dạy cho mình những bài học về kỹ thuật, khoa học, toán học, chẳng hạn như đại số, tiếng Anh, cỡi xe đạp, vận hành một chiếc máy vi tính. Nhưng trong những điều thực sự can hệ như cuộc sống, tình yêu, thực tại, Thiên Chúa, thì không ai có thể dạy được cho bạn một điều gì. Tất cả những gì họ có thể làm được là trao ban cho bạn những công thức mà thôi. Và ngay khi đã nhận một công thức, thì bạn có một thực tại đã được lọc qua tâm trí của một người khác. Nếu bạn tiếp nhận những công thức ấy, bạn sẽ bị giam hãm. Bạn sẽ héo úa và cho đến ngày sắp chết, có lẽ bạn vẫn chưa biết, đối với bạn, nhìn xem có nghĩa là học biết.
Bạn hãy nhìn như thế này: Đã có những giây phút trong cuộc đời bạn, bạn đã có một kinh nghiệm nào đó mà bạn đành phải mang nó xuống mồ chung với bạn, bởi vì bạn không thể tìm được lời nào để trình bày kinh nghiệm ấy với người khác. Thực vậy, vấn đề đơn giản chỉ vì không có lời nào trong ngôn ngữ loài người có thể trình bày một cách chính xác những điều bạn đã trải nghiệm. Bạn hãy nghĩ về cảm xúc trong bạn khi nhìn thấy một cánh chim bay trên mặt hồ, khi phát hiện một lá cỏ mọc chen qua khe nứt trên bức tường, khi nghe tiếng khóc của một đứa trẻ giữa đêm vắng, khi cảm nghiệm vẻ đáng yêu của một thân thể trần truồng, khi nhìn thấy một tử thi nằm lạnh lẽo cứng đờ trong một cỗ quan tài. Bạn có thể cố gắng diễn tả những kinh nghiệm ấy bằng thơ phú, âm nhạc, hoặc hội họa. Nhưng tận thâm tâm, bạn biết rằng không bao giờ sẽ có một người cũng nhận thức chính xác những gì bạn đã từng thấy và đã từng tri cảm. Đó là một điều mà bạn hoàn toàn bất lực không thể diễn tả, huống hồ là dạy dỗ cho người khác.
Đó là điều chính Thầy Chí Thánh đã từng cảm nghiệm sau khi Ngài dạy cho bạn về cuộc sống, về Thiên Chúa, hoặc về thực tại. Tất cả những gì một ông thầy có thể làm là trao ban cho bạn một công thức, truyền thụ một mớ ngôn từ được nối kết thành một công thức.
Nhưng những lời ấy dùng để làm gì? Bạn hãy tưởng tượng một nhóm du khách trên một chiếc xe buýt. Những tấm màn trên xe đều phủ kín và các du khách không nhìn thấy, nghe thấy, chạm được, hoặc ngửi được một chút gì của một miền quê xa lạ mà họ đang đi qua, trong khi hướng dẫn viên lại luôn miệng thuyết minh, trình bày cho các du khách những điều anh ta tưởng là một bài mô tả sinh động nhất về những mùi thơm, những âm thanh, những cảnh quang của thế giới bên ngoài. Điều duy nhất của các du khách có thể hình dung được là những hình ảnh mà những lời của hướng dẫn viên du lịch gợi lên trong đầu óc họ. Vậy giả sử chiếc xe buýt dừng lại, người hướng dẫn viên tiễn các du khách xuống xe cùng với những công thức mà họ chờ đợi để được thưởng lãm và được cảm nghiệm. Kinh nghiệm của họ sẽ bị vấy nhiễm, bị chi phối, bị bóp méo vì những công thức kia. Cái mà họ sẽ càm nhận không phải chính Thực Tại, nhưng là Thực Tại đã bị lọc qua những công thức của người hướng dẫn viên.
Các du khách sẽ nhìn Thực Tại một cách chọn lọc, hoặc sẽ đối chiếu Thực Tại với những công thức của riêng họ. Và như thế, không phải họ nhìn xem Thực Tại, nhưng là tái xác nhận những công thức của họ mà thôi.
Có cách nào cho bạn biết rằng điều bạn đang tiếp xúc là chính Thực Tại hay không? Đây là một dấu hiệu: Điều bạn cảm nhận không phù hợp với bất kỳ một công thức nào cả, cho dù công thức do người khác trao ban cho bạn hoặc công thức do chính bạn tạo nên. Đơn giản chỉ vì Thực Tại không thể được trình bày bằng ngôn từ.
Vậy thì những người làm thầy có thể làm được những gì? Họ có thể giúp bạn nhận ra điều gì không thật, nhưng không thể chỉ cho bạn nhìn thấy Thực Tại; họ có thể phủ định những công thức của bạn, nhưng không thể chỉ cho bạn thấy điều mà công thức ấy nhắm đến; họ có thể chỉ ra sai lỗi của bạn, nhưng không thể đưa bạn đến chỗ chiếm hữu Chân Lý. Cùng lắm họ chỉ có thể xác định được hướng chiều của Thực Tại, nhưng không thể nói cho bạn nhìn thấy cái gì. Bạn sẽ phải bước đến đó một lần, và tự khám phá lấy.
Bước đi một mình - nghĩa là bước đi mà không cần có bất kỳ công thức nào - những công thức người khác trao cho bạn, những công thức bạn học được từ sách vở, những công thức bạn tự tạo ra nhờ ánh sáng kinh nghiệm quá khứ của riêng bạn. Điều có lẽ là khủng khiếp nhất mà con người có thể thực hiện đó là tiến vào miền bất định mà không được một công thức nào che chở. Bước ra khỏi thế giới như các ngôn sứ và các nhà thần bí đã làm không phải là xa rời nhân loại. Khi ấy, cho dù có những đám đông vây quanh, nhưng bạn vẫn thực sự và hoàn toàn cô đơn. Thật là một tình trạng lẻ loi đáng sợ! Tình trạng lẻ loi ấy, sự cô đơn ấy là sự Tĩnh Lặng. Sự Tĩnh Lặng ấy chính là cái bạn sẽ nhìn thấy. Và ngay sau khi bạn nhìn thấy, bạn sẽ từ bỏ tất cả những sách vở, những hướng dẫn viên, những thầy bùa thầy mo.
Cái bạn sẽ nhìn thấy những gì? Có thể là bất cứ cái gì, có thể là mọi thứ: một chiếc lá đang rụng, thái độ của một người bạn, những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ, một cột đá, một tòa nhà hoang tàn, một con đường đông nghẹt xe cộ, một bầu trời lấp lánh đầy sao, bất cứ cái gì. Sau khi bạn đã nhìn thấy, một người nào đó có thể cố gắng giúp bạn diễn tả cái nhìn của bạn thành lời, nhưng bạn sẽ lắc đầu - Không, không phải như thế - lại thêm một công thức nữa. Một người khác sẽ cố gắng giải thích ý nghĩa của những gì bạn đã nhìn thấy, nhưng bạn cũng lắc đầu, bởi vì ý nghĩa là một công thức, một điều có thể trình bày bằng những ý niệm và giúp tâm trí suy nghĩ, còn điều bạn đã nhìn thấy thì vượt trên tất cả những công thức, tất cả những ý niệm.
Và một sự thay đổi lạ lùng sẽ đến với bạn, lúc đầu hầu như không thể cảm nhận được, nhưng lại là một sự thay đổi triệt để. Bởi vì sau khi đã nhìn thấy, bạn sẽ không bao giờ như trước kia nữa. Bạn sẽ cảm thấy một sự tự do hân hoan, một sự tin tưởng phi thường, vì biết rằng mọi công thức, cho dù có thánh thiêng đến đâu, cũng đều không có giá trị; và bạn sẽ không bao giờ gọi ai là thầy nữa. Khi ấy, bạn sẽ không ngừng học hỏi, bởi vì mỗi ngày bạn quan sát và hiểu biết toàn bộ quá trình và sự vận động của cuộc sống một cách mới mẻ. Khi ấy, mọi điều sẽ trở thành người thầy cho bạn.
Vậy bạn hãy cất đi những sách vở và những công thức của bạn; hãy can đảm từ bỏ người thầy của bạn, cho dù người thầy ấy là ai đi nữa, và hãy tự mình nhìn xem sự vật. Hãi can đảm nhìn vạn vật quanh bạn mà đừng sợ hãi, đừng nhìn theo một công thức nào cả, và chẳng bao lâu nữa, bạn sẽ được nhìn thấy.
Nguyên tác: The Way To Love
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2008

15. Không Thiên Vị Ai

Hỏi thưa Ngài, "Lạy Thầy, chúng tôi biết Thầy
nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai."
Lc 20: 21
Bạn hãy nhìn vào cuộc sống của bạn và xem bạn đã khỏa lấp sự trống rỗng của bạn bằng người này người kia như thế nào. Và kết quả là họ bóp nghẹt bạn. Bạn hãy xem họ đã kiểm soát thái độ sống của bạn bằng sự tán đồng hoặc bất đồng của họ như thế nào. Họ có năng lực xoa dịu nỗi cô đơn của bạn bằng việc gần gũi của họ, làm tinh thần của bạn bay bổng bằng những lời khen tặng của họ, xô bạn xuống vực thẳm bằng sự chỉ trích và khước từ của họ. Bạn hãy nhìn xem bạn hầu như đã mọi giây phút trong ngày sống của bạn để làm dịu hoặc làm vui cho người khác, dù họ đang sống hoặc đã chết. Bạn sống theo những quy tắc của họ, theo sát những tiêu chuẩn của họ, tìm kiếm sự kết thân với họ, thèm muốn tình yêu của họ, sợ hãi sự chê cười của họ, khát khao cái vỗ tay của họ, thuần thục trước tội lỗi họ đặt trên đầu bạn; bạn kinh hãi không dám đi ngược lại với cung cách của họ qua cách bạn ăn mặc, nói năng, hành động, và thậm chí cả lối suy nghĩ.
Và bạn hãy quan sát ngay cả khi bạn kiểm soát họ, bạn cũng lệ thuộc vào họ và làm nô lệ cho họ.
Người đời đã trở thành một phần quá lớn trong hữu thể của bạn, đến độ bạn không thể tưởng tượng được một cuộc sống mà không bị họ tác động hoặc chi phối. Thật vậy, họ đã làm cho bạn tin rằng nếu khi nào bạn tuyệt giao với họ, khi ấy bạn sẽ trở thành một hòn đảo - cô độc, rạn nứt, đáng ghét.
Nhưng thực ra, điều ngược lại mới đúng. Làm sao bạn có thể yêu một người mà bạn không thể sống thiếu họ? Bạn chỉ có thể khao khát, cần thiết, lệ thuộc, sợ hãi, và bị kiểm soát mà thôi. Tình yêu chỉ được tìm thấy ở nơi nào có tự do và không sợ hãi.
Làm sao bạn có thể đạt được sự tự do này? Bằng một cuộc tấn công hai mặt vào thói lệ thuộc và nô lệ của bạn. Trước tiên là bằng sự nhận thức. Hầu như ta không thể nào lệ thuộc, không thể nào làm nô lệ, nếu lúc nào ta cũng nhìn thấy sự ngu xuẩn của người mà ta đang lệ thuộc. Nhưng nhận thức này có thể không đủ đối với một người mà thói nghiện của họ lại là những con người. Bạn phải vun trồng những công việc bạn yêu thích. Bạn phải khám phá những công việc bạn đang làm, không phải vì sự hữu ích của nó, nhưng vì chính nó. Bạn hãy nghĩ về một việc gì đó tự thân nó khiến bạn yêu thích thực hiện, cho dù bạn thành công hay thất bại, cho dù bạn được khen ngợi hay không, cho dù bạn được yêu mến, được tưởng thưởng hay không, cho dù người ta có nhìn nhận và biết ơn bạn về điều đó hay không. Bạn có thể đếm được bao nhiêu công việc bạn đã làm trong đời chỉ vì việc ấy làm bạn vui thích và thu hút tâm hồn bạn? Bạn hãy tìm, hãy vun trồng chúng, bởi vì chúng là tấm hộ chiếu cho bạn để đạt đến tự do và tình yêu.
Ở đây, có lẽ bạn cũng đã bị tẩy não để theo lối suy tư của chủ nghĩa thực dụng: Thưởng thức một bài thơ, một thắng cảnh, hoặc một bản nhạc dường như là một việc phí phạm thời giờ; bạn phải sáng tác ra một bài thơ, một áng văn hoặc một tác phẩm nghệ thuật. Ngay cả việc sáng tác ra chúng cũng chẳng có bao nhiêu giá trị; tác phẩm của bạn còn phải được người ta biết đến mới được. Ích lợi gì cho bạn nếu đến muôn đời vẫn không ai nghe biết đến chúng? Và ngay cả khi chúng được biết đến đi nữa, điều ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu như chúng không được người ta tán tụng, ca ngợi. Những tác phẩm của bạn đạt đến giá trị tối đa nếu chúng được nổi tiếng và bán được giá cao!
Và thế là bạn lại rơi vào cánh tay và sự kiểm soát của người đời. Theo họ, giá trị của một công việc không phải là sự kiện nó được yêu chuộng, được thực hiện, được tán thưởng vì chính nó, nhưng ở sự thành công của nó.
Con đường vương giả để đến với đời sống thần bí và đến với Thực Tại không băng qua thế giới con người. Nó băng qua thế giới các hành động đang được thực hiện mà không màng thành công hoặc hám lợi - tức là những hoạt động lời lãi. Ngược lại với điều người ta thành nghĩ, thuốc chữa cho tình trạng thiếu tình thương và sự cô đơn không phải là sự kết thân, nhưng là sự tiếp xúc với Thực Tại. Khi tiếp xúc với Thực Tại, bạn sẽ biết tự do và tình yêu là gì. Tự do không bị người đời chi phối - và như thế mới có khả năng để yêu thương họ.
Bạn đừng nghĩ rằng để cho tình yêu xuất hiện trong tâm hồn bạn, trước tiên bạn phải đến gặp gỡ người khác. Đó không phải là tình yêu, nhưng là sự thu hút hoăch đồng cảm. Thực vậy, tình yêu trước tiên phát xuất từ trong tâm hồn nhờ sự tiếp xúc của bạn với Thực Tại. Không phải là tình yêu dành riêng cho một ai hoặc một vật nào, nhưng là thực tại của tình yêu - một thái độ, một tâm trạng của tình yêu. Tình yêu này khi ấy sẽ giãi chiếu ra cho thế giới sự vật và con người.
Nếu muốn tình yêu hiện hữu trong cuộc sống của mình, bạn phải dứt bỏ sự dựa dẫm nội tâm vào người khác bằng cách nhận thức về điều ấy và ra tay làm những công việc mà bạn yêu thích thực hiện cho họ.
Nguyên tác: The Way To Love
Tác giả: Anthony de Mello, S.J.